T̀NH YÊU : MỘNG HAY THỰC T́nh yêu là một loại h́nh văn hóa cao
cấp nhất của con người. Tuy nhiên "mộng" quá th́ mất "thực" hoặc
ngược lại. Mộng là cái ảo, cái hư, nhưng vẫn là cái thực. Đó là mộng
của thực và là thực của mộng. Nói đến t́nh yêu, thường được liên
tưởng ngay đến t́nh yêu nam nữ và tuổi trẻ. Rog Fuller nói: "Tuổi
trẻ cần cả t́nh yêu và t́nh bạn. T́nh yêu làm rực rỡ tuổi trẻ, c̣n
t́nh bạn làm ngọt ngào tuổi trẻ". Có tin nhau mới phát sinh t́nh bạn,
từ đó mà nảy mầm t́nh yêu. Chất lăng mạn là chất tất yếu liên kết
hai con người khác phái, tâm hồn và thể xác. Cả mộng và thực ḥa
quyện để có t́nh yêu hai – trong – một. |
T́nh trạng ly thân và ly dị là thiếu cân bằng giữa mộng và thực. Hoặc c̣n
sống chung nhưng chỉ là miễn cưỡng.
Để gọi là t́nh yêu đích thực th́ theo nhà soạn nhạc L.V.Beethoven (1770 – 1827),
"Phải có chất hy sinh mà không đ̣i hỏi ǵ". Đúng vậy, phải có "trái tim vàng"
trong "túp lều lư tưởng".
Ở thị xă Vĩnh Long ông N (56 tuổi) gặp cô M (22 tuổi) làm tiếp viên nhà hàng.
Ông động ḷng trắc ẩn, đưa cô về nuôi và cho cô học nghề. Đùng một cái, ông bị
tai nạn ngồi xe lăn. Cô M chưa học nghề xong, hằng ngày gánh rau cải ra chợ bán
nuôi ông, người mà cô đă "cảm" và nhận làm chồng. Có lẽ cô là người hiếm thấy,
nhưng đó là người phụ nữ vĩ đại và phi thường giữa đời thường. Cô đă thực sự
sống, không chỉ nh́n nhau mà c̣n nh́n về một hướng: Hạnh phúc trong t́nh yêu và
hôn nhân.
Không lấy người yêu ḿnh, chẳng lấy người ḿnh yêu, mà lấy người yêu ḿnh và
ḿnh yêu. T́nh yêu là lăng mạn là ảo mộng, cuộc hôn nhân là thực tế. Cái mộng mà
thực và thực mà mộng là bản sắc đặc trưng trong t́nh yêu mà nhưng ai đă, đang và
sẽ yêu đều cần phải có. Đó mới là biết yêu, bằng cách mộng mị hoá cái thực tế,
và thực tế hoá cái mộng ảo.
TRẦM THIÊN THU ( NGỌC THẢO chuyển, trích từ báo Công Giáo và Dân Tộc )
XANH VỎ ĐỎ L̉NG
Sau hai mươi tiếng đồng hồ đi tàu lửa, anh em chúng tôi đă đặt chân lên vùng đất
Quảng Ngăi, vùng đất của nắng cháy đồng khô, vùng đất của người nghèo, vùng đất
của nhiều người tha phương cầu thực, và nhất là vùng đất của rất nhiều vị tử đạo.
Trong chuyến đi này, tôi có được nhiều điều mới lạ: mới v́ được đi tàu lửa, mới
v́ được sống trong một gia đ́nh người Quảng, mới v́ đây là lần đầu tiên tôi được
đến và được sống trên mảng đất Truyền Giáo đă thấm đẫm máu đào của rất nhiều vị
tử đạo trong đó có hai anh em Ḍng chúng tôi là Cha An-phong Điềm và thầy
Phao-lô Mẫn.
Chuyến đi thực tế này, chúng tôi không sống tại Cộng Đoàn như các anh em năm
trước mà sống tại nhà các chức việc thuộc các chi họ do Cha Bề Trên sắp xếp.
Sống trong cùng một gia đ́nh, chúng tôi được trở nên những người con, người cháu,
người bạn từ xa về thăm gia đ́nh, bè bạn. Tôi và chú Ba (Thầy Thoại) được sống
và sinh hoạt tại chi họ B́nh Hiệp, cách trụ sở Châu Ổ khoảng 4 km. Với phương
châm tam cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, chúng tôi đă nhanh chóng hội nhập và
trở nên như người dân địa phương: cũng phát bờ cuốc góc, thồ phân, vét giếng...
Ở đây ruộng ít hơn đồi, cát nhiều hơn đất, lại thêm khí hậu khắc nghiệt nên con
người có vẻ lam lũ, cảnh vật khô cằn. Có lẽ chỉ có cây khoai ḿ là chịu được nên
lá vẫn xanh. Phải chăng chính cái nghèo, cái khổ, cái khắc nghiệt, cái khó khăn
do hoàn cảnh đă rèn đúc nên những con người có một ư chí vững mạnh cả mặt đời
lẫn mặt đạo?
Về mặt đời, họ lo tiến thân qua việc cố gắng học để có một cái nghề hay chấp
nhận đi xa làm ăn, chấp nhận làm mọi nghề như: thợ hồ, bán vé số, bán hàng dạo...
miễn là có tiền. Ở đây, gia đ́nh nào có hai người vào thành phố làm ăn là khá
giả.
Về mặt Đạo, có những người hết ḷng trung thành với đạo dù có bị chèn ép, bị
gây khó khăn đủ điều. Mặc dù Nhà Thờ chi họ không c̣n nữa, khi đi lễ th́ bị chặn
đường gây khó dễ khăn, nhưng họ vẫn t́m mọi cách để sống đạo và giữ đạo vào thời
khó khăn nhất.
Gần nhà tôi ở, có một ngôi Nhà Thờ đă bị trưng dụng làm trường nông nghiệp và
nay đang bỏ hoang. C̣n hang đá Đức Mẹ ở sân Nhà Thờ th́ chỉ c̣n có đá thôi. V́
vắng bóng Mẹ, những viên đá xanh rêu h́nh như không muốn nằm im nên cũng buồn bă
hạ thổ nằm. Nếu không để ư th́ người qua đường khó có thể nhận ra đây là nơi mà
đă có thời các sinh hoạt tôn giáo sầm uất, cũng như đă từng là nơi trú ẩn an
toàn cho dân thời chiến tranh. Nó c̣n là ranh giới phân chia giữa người có đạo
và người ngoại.
Mỗi khi đi ngang ngôi Nhà Thờ năm xưa, cái đau thương, cái buồn cho nhà Chúa lại
xâm chiếm ḷng tôi. Nhiều lần như thế và tôi đă hỏi Chúa. Lạy Chúa, Chúa ở đâu?
Dây thừng Chúa dùng để đuổi con buôn khỏi đền thờ năm xưa đâu, hay người ta đă
dùng nó mà trói Ngài khi đem Ngài đi đóng đinh? Suy nghĩ về nhà Chúa ở đây cứ
đeo bám tôi măi mà tôi không hiểu nổi.
Cho đến một hôm, tôi gặp một cụ già chia sẻ với tôi về ḷng tin của cụ thời cấm
cách. Cụ kể cho tôi biết bao khó khăn cụ phải chịu. Thậm chí có lúc, cụ đă cạo
trọc đầu để họ lầm là thầy chùa nhưng vẫn không yên. Mỗi khi phải đối mặt, cụ
vẫn một mực tuyên xưng Đức Tin. Cụ tâm sự với tôi: "Làm sao tôi có thể bỏ Chúa
được. Tránh th́ vẫn tránh nhưng khi đối mặt th́ ḿnh vẫn phải tuyên xưng Chúa
thôi''. Tôi c̣n gặp một số người trẻ nhưng sẵn sàng chấp nhận sự thiệt tḥi, mất
việc để giữ đạo.
Từ khi gặp được những con người như thế, tôi có suy nghĩ khác trước. Nhà Thờ
là nơi chỗ cần cho người tin sinh hoạt tôn giáo, gặp Chúa và gặp nhau. Người ta
có thể phá huỷ đền thờ bằng gạch đá chứ không ai phá hủy được đền thờ tâm hồn đó
là đền thờ thiêng liêng được đặt trong ḷng của mỗi con người mà thế gian không
thể phá huỷ được. Nên dù bị cấm cách, bắt bớ cũng như bị cách ly khỏi đời sống
Cộng Đoàn, đời sống Đức Tin của họ vẫn phát triển và sinh hoa kết trái giống như
cây khoai ḿ, mặc cho thời tiết khắc nghiệt, đất cày sỏi đá nhưng củ vẫn cứ
nhiều.
Đó chính là điều mà thánh Phao-lô đă quả quyết trong thư gửi tín hữu Rô-ma: "Ai
có thể tách chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân,
khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ gươm giáo?" Như có lời chép: "Chính v́
Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong
mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thằng nhờ Đấng đă yêu mến chúng ta." (Rm 8, 35 –
37)
Mặt khác, cũng chính khi phải đối mặt với sự dữ, phải chịu thử thách về ḷng tin
mà lộ ra chân tướng của người tin thật, tin giả; lộ ra những sỏi đá, bụi gai mà
hạt giống lời Chúa đă gieo vào mà không sinh trái; lộ ra đâu là lúa tốt, đâu là
cỏ lùng. Những người chối bỏ Đức Tin vào thời khó khăn xưa nay vẫn c̣n dửng dưng
với tôn giáo. Họ vẫn coi tôn giáo như một cái ǵ đó luôn cản trở họ, cản trở con
cái họ trên con đường làm ăn sinh sống. Với lư do không có đạo dễ xin việc hơn
và thế là họ vẫn để Chúa nằm ngoài cuộc sống họ. Tôi trộm nghĩ, không phải bây
giờ Chúa mới không có nơi họ mà ngay thời xưa, lúc chưa gặp thử thách về Đức Tin
Chúa cũng chẳng có nơi họ. Nói cách khác, họ theo đạo là để có được bao nhiêu
những thứ khác ngoài Chúa.
Qua chuyến đi thực tế lần này, một lần nữa tôi lại cảm nghiệm được hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh, trong ḷng người tin. Do đó, dù thế gian có cấm cách bắt bớ mấy đi chăng nữa th́ vẫn có những con người đứng đó làm chứng cho Đức Tin. Dù số đông có bỏ đạo để được lợi một cái ǵ th́ vẫn có những người chấp nhận thiệt tḥi để được cái lớn hơn là chính Chúa. Họ như những ánh sao giữa bầu trời đen như thể nhắc nhở cho mọi người biết rằng: ánh sáng Đức Tin vẫn c̣n đó. Chính họ là những người đă tin tưởng và sống triệt để Lời Chúa "Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng hăy can đảm lên! Thầy đă thắng thế gian" (Ga 17, 33).
ĐỖ MINH HIẾN, CSsR ( trích từ Website Tỉnh Ḍng Chúa Cứu Thế Việt Nam )