Tuy phải vất vă chạy đi chạy lại để bổ túc rất nhiều lần về giấy tờ cần thiết,
như chứng nhận khai thuế, lợi tức hằng tháng, hóa đơn trả tiền điện & nước, v.v...,
cộng thêm những giấy tờ gọi là affidavit (bảo lănh) từ tỉnh ḍng Baltimore
“chứng minh đầy đủ tài sản và tiền bạc để hoàn toàn bảo đảm đương sự có nơi ăn
chốn ở, kể cả bảo hiểm sức khỏe, v.v...” nhưng cuối cùng tôi được cấp visa đi Mỹ,
có giá trị 3 tháng từ 7/7/86 đến 7/10/86, ra vào nước Mỹ được 2 lần.
Nhân viên ṭa đại sứ Mỹ, trước khi giao cho tôi visa, c̣n nói rơ: “Par ce visa,
vous êtes seulement permis d’arriver à n’importe quel aéroport des Etats Unis,
mais être admis ou non d’entrer et de rester dans le territoire des Etats Unis
est encore à être décidé par l’officier de l’INS à cet aéroport.” (Với hộ chiếu
này, anh được phép đến bất kỳ phi trường nào của nước Mỹ, nhưng việc chấp thuận
vào lănh thổ nước Mỹc̣n tùy thuộc nhân viên Di Trú tại phi trường đó). Tuy không
hiểu mô tê ǵ về câu thứ hai, tôi cầm lấy visa trong tay, ḷng hớn hở khôn tả.
Sau hơn một tháng “dồi mài kinh sử... Mỹ”, tôi ghi danh đi thi TOEFL tại một
trung tâm Pháp-Mỹ. Kết quả chỉ được 480 điểm! Huynh phụ tỉnh Joseph Mahon viết
thư khích lệ và đề nghị tôi đến Philadelphia càng sớm càng tốt, theo học vài
khóa ESL (English as Second Language) tại đại học Philadelphia để “chuẩn bị thi
TOEFL có lẽ sẽ đạt được kết quả tốt hơn.” V́ hai em Vũ Huy Hoàng và Nga chính
thức cưới hỏi vào ngày 3 tháng 8, tôi quyết định mua vé máy bay đi New York ngày
5/8, “ghé” thăm các em đệ tử tại Santa Ana vài ngày, rồi đến Philadelphia đúng
ngày 15/8, với tâm t́nh “dâng hiến mọi dự định trong đời sống lên Mẹ Maria” nhân
ngày lễ trọng kính nhớ ngày Mẹ Hồn Xác lên trời.
***
Khác hẳn mọi lo âu hồi hộp, tôi đến phi trường JF. Kenedy, New York, không
gặp rắc rối nào. Em Nguyễn Tiến Dũng (tác giả tranh b́a cho Hồi Kư tập 2 này) ra
đón và bao ăn tối tại một nhà hàng Nhật Bản. Sau bữa cơm tối, tôi thấy em Dũng
gọi vài hộp giấy đem thức ăn c̣n lại đem về. Tôi trố mắt nh́n, em cười nói:
“Doggy bags!” Tôi hỏi: “Em có nuôi chó trong nhà à?” Em Dũng cười nói nhỏ: “Gọi
là ‘doggy bags’ nhưng thật ra là ḿnh đem về ăn, bỏ uổng!” Suốt buổi sáng hôm
sau, em Dũng đưa tôi đi xem bức tượng Nữ Thần Tự Do vang danh thế giới. Quả là
vĩ đại và đầy ư nghĩa.
Xế chiều, em Dũng đưa tôi ra phi trường đi Los Angeles. Một số khá đông các em
đệ tử vui mừng ra tiếp đón ngay tại phi trường Los Angeles. Anh, Em, thầy tṛ
gặp nhau lại sau hơn 10 năm. Vui mừng, cảm xúc làm sao! Nh́n những gương mặt mới
cách đây hơn 10 năm c̣n non choẹt, lăng xăng, “bố nếu bố náo” đúng như người ta
thường nói “nhất quỉ nh́ ma thứ ba học tṛ”... nay chững chạc hẳn ra, một số th́
tay bồng tay bế, số khác tuy c̣n “độc thân vui tính” nhưng gương mặt ít nhiều tỏ
hiện mối ưu tư “Chiến Đấu Để Sống”. Tôi hơi chạnh ḷng, nhưng cũng vui mừng hănh
diện thầm nghĩ: “Các Em trưởng thành rồi!”
Các em đưa tôi đi tham quan những “kỳ quan thế giới” mà tôi đă được biết qua
sách vở báo chí và phim ảnh, như cầu Golden Gate, Yoshimite... Tạo Hoá thật quá
ưu đăi nước Mỹ! Các em không quên đưa tôi thăm gia đ́nh Lộc&Oanh và baby Hiếu
tại Oakland. Tôi không quên xin các em đưa tôi t́m đến địa chỉ của hai em nữ
sinh người Hoa Mạc Kim & Nguyễn Hương tại San Francisco, nhưng h́nh như hai em
đă di chuyển đến sinh sống tại một nơi nào khác. Hai em nữ sinh này là hai người
đă "sung sướng nhận Bánh Thánh đêm Lễ Noen cuối cùng tại La San Mossard, và cũng
là hai em duy nhất gởi món quà “t́nh nghĩa” về cho tôi khi tôi vừa được ra khỏi
tù năm 1981. Tôi thầm nghĩ, “không được dịp mặt đối mặt, nhưng gặp nhau trong
tâm t́nh quí trọng thương yêu cảm mến... là tốt rồi!”
***
Huynh Fortunat Phong đón tôi tại phi trường Philadelphia trưa ngày 15 tháng
8, 1986, đưa về cộng đoàn West Catholic tại đường Chestnut & 49th Streets. Huynh
trưởng cộng đoàn, Joe Boggle, trạc độ tuổi tôi, niềm nở tiếp đón vào cộng đoàn
các Huynh Đệ La-Mỹ. C̣n có Huynh Cosmes Tuân và Fortunat Phong là hai Huynh Đệ
La-Việt trong cùng cộng đoàn trên 10 Huynh Đệ La-Mỹ. Điều này làm tôi đỡ cảm
thấy cô đơn trong những ngày đầu tiên ở xứ Mỹ.
Sáng hôm sau, Huynh phụ tỉnh, Joe Mahon đến West Catholic chúc mừng tôi đến
Philadelphia để tiếp tục “kiếp học... đại”. Huynh Joe thật sự “biết điều” và
tinh tế: Huynh biết tôi “nghe” tiếng Mỹ không/chưa quen, nên nói chuyện với tôi
thật chậm. Huynh đă chuẩn bị đầy đủ hồ sơ như ghi danh học ESL tại UoP
(University of Philadelphia), bảo hiểm sức khỏe, v.v... Tôi thật t́nh cảm động
được Huynh Đệ đồng môn La-Mỹ sắp xếp mọi chuyện, thật chu đáo và thân t́nh.
***
Khóa học ESL kéo dài trong 6 tuần lễ, 5 ngày/tuần, 6 tiếng đồng hồ/ngày.
Khoảng 15 sinh viên thuộc nhiều quốc tịch, ngôn ngữ, văn hóa khác nhau - 2 người
Pháp, 1 người Đức, 2 người Colombia, 3-4 người Trung Hoa Dân Quốc, 6-7 người
Nhật, và 1 người Việt Nam; có lẽ tôi là người “cao niên” nhất trong lớp này(!) -
cùng ngồi bên nhau bập bẹ nói, nghe, chia sẻ bàn luận một đề tài đơn giản, và
viết tiếng Mỹ dưới sự hướng dẫn của 4 thầy cô gốc Mỹ. Ngôn ngữ thông dụng và
được dùng nhiều nhất là “to quơ!” trong vài tuần đầu. Chúng tôi nói với nhau th́
thật sự “anh/chị nói anh/chị hiểu, tôi nói tôi hiểu”, nhưng thầy cô giáo “hay
thiệt!” Họ hiểu mỗi người, dù nói theo giọng của bất kỳ quốc gia nào.
Chúa Nhật tuần đầu tiên theo học ESL tại UoP, tôi đi lễ tại nhà thờ Saint James
bên cạnh đại học Philly. Nhận xét khá lư thú là rất đông thanh niên nam nữ đủ
mọi sắc tộc tham dự thánh lễ, có thể nói chật cả thánh đường rộng lớn. Những ư
tưởng “bị nhồi” lúc c̣n trẻ về “văn hóa đồi trụy, về lối sống vật chất, về nếp
sống hưởng thụ, v.v... của dân Mỹ” tan biến khỏi trí óc tôi.
Nhớ lại khi tôi c̣n ở Drancy, mỗi sáng đi lễ tại nhà thờ họ đạo Drancy - nhà thờ
cũng rất rộng lớn, có thể tương đương với nhà thờ Đức Bà tại Saigon. Lắm lúc chỉ
có hai Huynh Đệ Roger và tôi với ông linh mục chủ tế. Thôi th́ ngày thường trong
tuần chẳng nói làm chi. Ngày Chúa Nhật th́ chỉ gom tụ trên dưới 30 giáo dân.
Ngày lễ trọng như Giáng Sinh, Phục Sinh, mà cũng chỉ gom tụ trên dưới 50 giáo
dân. Ban đầu tôi nghe nói tại v́ vùng Drancy thuộc tỉnh Saint Dennis, mà khu vực
Saint Dennis lại là “thân cộng” nên hầu hết “giáo dân mang danh là công giáo
nhưng không sống đạo như người công giáo”. Nhưng sự thật th́ lối sống đạo của
giáo dân Âu Châu nói chung, của giáo dân Pháp nói riêng “xuống cấp” rất thấp
trong nhiều thập niên qua. Khi tôi c̣n nhỏ, Huynh trưởng Sơ Tập Viện tại Đồi La
San Nha Trang, Huynh Gaston Gẫm đă răn dạy: “Đừng làm như một số dân Âu Châu nói
chung, dân Pháp nói riêng. Tuy mang danh là Kitô hữu, nhưng suốt đời họ chỉ vào
nhà thờ hai (2) lần, và lúc nào cũng được “bế” vào: lúc rửa tội và lúc trước khi
được đem đi chôn.”
Sau 6 tuần học, tôi ghi danh thi TOEFL, và may mắn làm sao “ngáp phải ruồi”: đủ
điểm (trên 520) để được ghi danh vào học LaSalle University. Nhưng v́ khóa học
Mùa Thu 86 sắp kết thúc, nên Huynh phụ tỉnh Joe Mahon khuyến khích tôi tiếp tục
học ESL thêm một khóa nữa tại UoP. Cũng tốt thôi!
Khóa ESL thứ hai kết thúc vào tháng 12/1986. Tôi ghi danh thi TOEFL để đo lường
sự tiến bộ về tiếng Mỹ đến mức nào? Thật “quái lạ!” Chẳng những không đạt được
số điểm cần thiết để ghi danh học... đại, mà chỉ hơn kỳ thi TOEFL tại Paris 15
điểm (495 điểm!) Tôi dấu nhẹm kết quả kỳ thi lần thứ ba này. Tôi kể lại chuyện
này với Huynh Đệ La-Mỹ trong cộng đoàn West Catholic. Ai cũng cười... thông cảm.
Một Huynh La-Mỹ, như để ủi an tôi, cười nói: “Val à, thi TOEFL coi vậy mà không
phải dễ đâu! Ngay cả chúng tôi cũng chưa chắc pass nữa!”
Thế là tôi đến La Salle University học khóa Mùa Xuân năm 87. Huynh Christopher
dựa vào vài chứng chỉ Đại Học Đà Lạt và các chứng chỉ Tâm Lư Sư Phạm và Thần Học
của tỉnh ḍng Saigon, cho tôi được hưởng 50 credits. Tôi chỉ cần lấy thêm 70
credits là có thể ra trường.
***
Tôi cảm thấy “thiếu vắng” chuyện ǵ. Có lẽ lúc c̣n ở bên Pháp, tháng nào cũng
gởi thùng thuốc về Việt Nam. Ở đây, mấy tháng đầu c̣n lo nghĩ thi TOEFL, bây giờ
chương tŕnh học... đại tại La Salle University tương đối đă ổn định nên cảm
thấy ḿnh c̣n thiếu sót chuyện ǵ chăng? Tôi có ḍ la t́m cách tậu thuốc hoặc
những vật ǵ có thể làm quà Tết Nguyên Đán 87 cho Huynh Đệ La-Việt và gia đ́nh
bên Việt Nam. Huynh Tuân cho biết FBI vừa truy tố ra ṭa gần 100 bác sĩ người
Việt và thu giấy hành nghề về vụ “cung cấp hóa đơn giả” để lấy thuốc của Health
Insurance và Medicare ǵ ǵ đó, và khuyên tôi đừng nhảy vào chuyện phi pháp này.
Thôi đành chịu!
Tôi dọ hỏi Huynh Tuân: “Anh Em ḿnh bên này có gởi quà về Việt Nam cho Anh Em
bên đó không?” Huynh Tuân hơi lưỡng lự rồi nói: “‘Moi’ không nghe nói. Mà h́nh
như chưa bao giờ có ai nhắc đến chuyện này. ‘Vous’ đưa cho ‘moi’ đọc mấy lá thư
của anh G. trong bản tin ‘Tinh Thần La San’ (xin xem Phần Phụ Ghi trang 430)
‘moi’ mới biết là bên Pháp mấy ‘vous’ làm hay thiệt.” Tôi nhớ lại nhân ngày
15/5/1981, sau thánh lễ tôn kính Cha La San, Quan Thầy các nhà giáo, Huynh giám
tỉnh Lucien đọc cho Huynh Đệ nghe lá thư của Huynh Phong gởi, nói về những tổ
chức này nọ, và than phiền rằng “mắc nợ như chúa chỏm, phải nai lưng làm việc
trả nợ” mặc dầu “lắm lúc con (Huynh Phong) ngâm ca bài thánh vịnh Bên bờ sông
Babylon... mà nước mắt tuôn trào...” Một vài Huynh Đệ cười nói: “Ḿnh biết tính
của anh Phong quá mà!” Tôi tính hỏi Huynh Tuân về việc này nhưng nghĩ lại thôi.
Thật sự trong cộng đoàn West Catholic, chỉ có Huynh Tuân và tôi là thường xuyên
gặp mặt nhau, c̣n Huynh Phong th́ “bận quá nhiều công việc...” với các em nhỏ
trong ban văn nghệ th́ phải.
Tôi ngỏ ư muốn học và thi lấy bằng lái xe. Huynh Cosmes Tuân thật tận t́nh giúp
đỡ. Huynh đưa tôi đến một băi trống khá lớn, dùng cây vẽ đường cua trái cua phải,
bảng stop, đáp lề ttrong các băi đậu xe, đáp lề song song với lề đường, v.v...
Mặc dầu tôi đă biết lái xe từ năm 1970, nhưng Huynh Tuân nhắc nhở: “Đi lấy bằng
lái xe bên này không phải như bên Việt Nam đâu nhé! Có phải ‘vous’ đă kể chuyện
bố Đào Colomban cũng đi thi một lượt với ‘vous’ và Frère Hồng. Bố Đào ủi gảy cây
ngăn chỗ đáp xe. Tông găy luôn khúc cây mà vẫn đậu và được cấp bằng đó sao? Bên
này không có như vậy đâu!”
Tôi biết và tin Huynh Tuân chứ. Bên này làm ǵ có chuyện “đút lót”, làm ǵ có
chuyện “cảm thông?” Như vậy cũng tốt. Tôi chú tâm học lái theo đường Huynh Tuân
vạch ra cho thật nhuyển. Đến ngày đi thi, Huynh Tuân có vẻ hồi hộp, nhưng tôi
rất tự tin. Trên đường thi lái xe, đến gần một ngă tư có 4 đường xe/mỗi bên, và
xe tôi đang chạy trên đường có in mũi tên “quẹo trái”. Khoảng 10 mét trước khi
đến ngă tư, bà giám khảo bảo tôi: “Go straight!” (Đi thẳng). Tôi lưỡng lự chưa
biết “straight” có nghĩa là “đi thẳng” không quẹo trái hay cứ “đi thẳng theo”
dấu mũi tên? Thú thật lúc đó tôi không c̣n tâm trí để ư đèn đỏ hay đèn xanh. Đến
ngă tư, tôi cũng không biết tại sao tôi cho xe quẹo trái theo dấu mũi tên, hồi
hộp chờ câu nhận xét của bà giám khảo. “Good!” (Tốt) Thế là tôi được bằng lái xe.
Huynh Tuân hớn hở nói: “‘Vous’ khá thiệt! Nhiều người phải thi đến 3, 4 lần mới
lọt, ‘vous’ chỉ thi có một lần!”
Huynh Tuân c̣n khuyên tôi nên đến văn pḥng xă hội xin thẻ an sinh xă hội
(Social Security Card). Huynh Tuân hướng dẫn mọi chi tiết cần thiết, nộp đơn xin
thẻ. Nhưng tôi không được cấp v́ lư do “Student Status F1”. Tôi chẳng hiểu ǵ
lắm về thẻ an sinh xă hội nên cũng không lưu tâm làm ǵ.
***
Khóa Mùa Xuân chưa kết thúc mà Văn pḥng hồ sơ ghi danh của LaSalle
University gởi giấy báo cho tôi biết, titre de voyage sắp hết hạn
(7-Juillet-1987) và trên nguyên tắc, mọi titre de voyage hoặc passport phải c̣n
hiệu lực trên 6 tháng mới hợp lệ. Thế là Huynh Cosmes Tuân đưa tôi đi New York
để xin gia hạn. Mặc cho lời phân bua hơn thiệt, ṭa lănh sự Pháp chỉ cho gia hạn
đúng 6 tháng: “La loi c’est la loi!” (Luật là luật!) Chỉ c̣n cách trở về Pháp để
xin gia hạn titre de voyage thêm 2 năm. Vấn đề không đơn giản như vậy! Kỳ hạn
visa vào Mỹ hết hạn từ lâu, lại phải xin visa vào Mỹ.
Tôi đă có kinh nghiệm về việc xin visa đi Mỹ - phải mất ít nhất 3 tháng, nên
chưa biết phải tính toán làm sao cho tiện lợi. Huynh phụ tỉnh Joe Mahon thật tận
t́nh giúp tôi xin được giấy “bảo đảm” của nhân viên INS và giấy current student
tại LaSalle University, giấy chứng nhận “sinh viên... tốt” của lớp ESL tại UoP,
và giấy tái xác nhận “bảo đảm mọi sự về chi phí ăn ở, bảo hiểm sức khỏe, v.v...”
***
Tôi về lại Drancy cuối tháng 5, 1987. Trong dịp này, phụ tỉnh Saigon tại
Paris đề cử Huynh Désiré Lê Văn Nghiêm làm phụ tỉnh, thay thế Huynh Alexandre Lê
Văn Ánh vừa hết nhiệm kỳ. Tuy vẫn tiếp tục nhiệm sở ở Nouméa, Tân Đảo, Huynh
Désiré dành khá nhiều th́ giờ đi lại thăm viếng Anh Em La-Việt ở Úc, ở Mỹ, và lẽ
tất nhiên ở Pháp. Tôi xin gặp Huynh tân phụ tỉnh và tŕnh bày lại lư do tôi xin
đi học tại Philadelphia, và kết quả của một năm học ESL vừa qua, lư do tại sao
tôi phải về Pháp, v.v...
Huynh Désiré nói: “‘Moi’ không biết phải nói ‘Vous’ may mắn hay xui xẻo về việc
giấy tờ! Qua Tân Đảo chưa đầy 2 tháng đă được đi về Paris. Ở Paris chưa đầy 2
năm mà lại được cấp visa đi Mỹ học! Ở Mỹ chưa đầy một năm lại trở về Paris làm
giấy tờ!...” Tôi cười trả lời: “‘Số’ của con là gặp rắc rối về giấy tờ hợp lệ từ
khi con c̣n ở trại Palawan! Tuy nhiên, dù trắc trở thế nào rồi cũng giải quyết
êm xuôi! Con hy vọng lần này gia hạn titre de voyage và làm lại visa đi Mỹ không
đến nổi khó khăn như mấy lần trước!” Huynh Désiré hỏi: “‘Vous’ có ư định về
Paris làm việc sau khi học xong hay không?” Tôi sực nhớ y chang câu mà Huynh
tổng quyền hỏi và tôi cũng trả lời cho Huynh Désiré nguyên văn câu trả lời của
tôi cho Huynh tổng quyền (xem trang 149). Phản ứng của Huynh Désiré y hệt phản
ứng của Huynh tổng quyền. Huynh Désiré c̣n thêm: “Chúc ‘vous’ may mắn và thành
công!”
Việc đầu tiên phải làm là xin gia hạn titre de voyage thêm 2 năm (mức gia hạn
cũng như làm mới chỉ được 2 năm). Việc xin gia hạn xem ra không có vấn đề. NHƯNG
tôi gặp phải 2 trường hợp “tế nhị”:
1. Lần đầu tiên gặp bà nhân viên sở di trú/du lịch phỏng vấn để gia hạn titre de
voyage, v́ bà nói nhanh quá (hay v́ tôi ít nghe nói tiếng Pháp gần một năm
qua?), nên tôi chưa hiểu rơ, tôi xin bà lập lại, bà có vẻ giận dữ nói: “Vous ne
comprenez pas le Francais? Prochaine fois, reviens avec un interprète!” (Anh
không hiểu tiếng Pháp à? Lần tới, trở lại với một thông dịch viên) rồi bà dứt
khoát không muốn tôi tŕnh bày ǵ nữa. Tôi có cảm tưởng là bà... ganh tị/kỳ thị.
2. Titre de voyage đă được gia hạn đến ngày 26/Octobre/87 tại New York, mà tôi
lại xin gia hạn tại Paris cuối tháng 5/87, nghĩa là sớm hơn 5 tháng.
Tôi xin Huynh Roger Vĩnh đi theo làm thông dịch, nhưng thật ra “cho có mặt”
thông dịch viên trong trường hợp gặp “bà chằng” . Lần này, may mắn gặp một bà...
đầm có vẻ thông cảm dễ tính hơn, tôi tŕnh bày lư do tại sao tôi phải xin gia
hạn titre de voyage. Bà đầm gật đầu thông cảm, và hứa sẽ hoàn tất trong ṿng 3
tháng.
Ngay sau khi titre de voyage được gia hạn đến cuối tháng 8/89, tôi chạy đến ṭa
đại sứ Mỹ xin visa tiếp tục học ở Philadelphia. Không gặp trở ngại khó khăn nào
từ ṭa đại sứ Mỹ. Tôi nghe nhiều người bảo rằng “Nếu đă được cấp visa đi Mỹ một
lần rồi th́ những lần kế tiếp dễ dàng lắm. Nhưng nếu bị từ chối một lần rồi th́
coi như không c̣n hy vọng được cấp visa đi Mỹ!” Thêm vào đó, những người Việt tị
nạn ở Pháp hay bất kỳ các nước nào khác mà trong titre de voyage hoặc passport
có khuôn dấu của Đông Đức hoặc các nước cộng sản th́ coi như đi đoong!
***
Ngoài những môn học bắt buộc như College Writings I&II, Statistics and
Probability, v.v... tôi ghi danh lấy 2 lớp computer, mặc dù ông Samuel, Dean of
the computer department ngăn cản. “It’s too hard for you!” (Nặng lắm đó Frère!)
”Nặng” thiệt, nhưng không sao, nhất là những bài đầu tiên làm quen cách xử dụng
computer thật sự hấp dẫn. Huynh cựu giám tỉnh tỉnh ḍng Baltimore, Huynh William
Quinn, là người đầu tiên rất kiên nhẫn chỉ cho tôi dùng “con chuột”, vào data,
làm tính “tự động” trong Excel, v.v...
Các em đệ tử ở Santa Ana c̣n làm một cử chỉ tuyệt vời: mua tặng “ông thầy... học
tṛ” máy computer IBM compatible, AST, có hard disk đến 20megabytes. “Hard disk
lớn nhất hiện nay đó, ông thầy!” Đă thiệt! Thế là nhiều đêm không ngủ cũng chỉ
v́ những “input”, “output”, ám ảnh. Thêm vào đó, lần đầu tiên “ra lệnh” cho
computer trả lời những câu hỏi tuy thật đơn giản nhưng không kém phần... kỳ lạ
và hấp dẫn!
Thật t́nh tôi say mê với computer, với những khám phá mới. Nào là ǵ ǵ gọi là
DOS. Nào là progamming languages như BASIC, PASCAL, C, COBOL, v.v... Nào là “vẽ
tranh” bằng... chữ (nghĩa là đánh máy từ keyboard những chữ gọi ǵ ǵ là
algorithm, statements/commands loạn xà ngầu cả lên, rồi nhấn RUN, bức tranh ḿnh
muốn “vẽ” hiện ra trên màn ảnh nhỏ! - Thật độc đáo!