Tại sao lại sang Campuchia?
Anh em La San Việt Nam chưa từng nghĩ đến việc sang Campuchia
(Cam) mặc dù ngày xưa Tỉnh Ḍng Saigon bao gồm 3 nước Thái Lan, Campuchia và
Việt-Nam. Và thực sự, anh em cũng chưa nghĩ đến ngay cả sang Campuchia để tham
quan du lịch. Thế nhưng, vào tháng 5 năm 2004, nhân kỳ họp mặt các Bề Trên Tân
Giám Tỉnh thế giới tại Roma, ư tưởng trở lại Cam xuất hiện lờ mờ trong một bữa
cơm nhân một ngày đi dạo.
Trong bữa cơm trưa hôm đó, trên bàn ăn gồm có Bề Trên Tổng Quyền Alvaro, hai sư
huynh Giám Tỉnh và Phụ Tá Giám Tỉnh Québec và Sư Huynh Giám Tỉnh Việt-Nam. Câu
chuyện quay quanh sứ mạng La San trên thế giới, đặc biệt các xứ Á Châu. Để tham
gia vào câu chuyện, sư huynh Giám Tỉnh Việt Nam kể về sứ mạng La San bên Cam,
các sư huynh La San người Pháp đă hiện diện tại đó từ năm 1906 với sự hợp tác
của các sư huynh Việt Nam, điều khiển những nhà trường rất có uy tín nhưng bỏ dỡ
dang v́ chiến tranh. Hiện nay nhiều nhà truyền giáo đă trở lại, trong đó có các
linh mục người Canada. Và Sư huynh Giám Tỉnh Việt-Nam đề nghị các sư huynh người
Canada trở lai Cam v́ có các vị thừa sai đồng hương . Các sư huynh vui vẻ bàn
tán, nêu lên những lư do không được và rốt cuộc th́ tất cả đều cho rằng La San
Việt-nam trở lại Cam là phù hợp nhất. Và tất cả mọi người trong bàn ăn yêu cầu
sư huynh Giám Tỉnh Việt-Nam uống cạn ly rượu, như dấu chỉ cam kết sẽ thực hiện
sứ vụ nầy. Sau khi suy nghĩ chừng 15 phút, sư huynh Giám Tỉnh Việt-Nam cạn ly,
chấp nhận sẽ đi thực tế nghiên cứu và báo cáo lại t́nh h́nh . Việc trở lại Cam
bắt đầu như thế đó.
Bên đất nước Cam, người ta thấy rơ hai hạng người Việt kiều. Hạng người ḥa nhập
được xă hội Cam, có công ăn việc làm đàng hoàng, nói tiếng Khmer trôi chảy và
hạng người thứ hai là những người sống co cụm lại với nhau, ở dọc theo bờ sông,
không phải là mới 5 hay 10 năm mà có khi đă đến 2, 3 thế hệ. Hạng người thứ nhất
có thể nói được là thành công trong cuộc sống và giàu. Hạng thứ hai sống đời
sống nghèo đói cơ cực, bấp bênh, mỗi ngày ra sông kiếm cũng có cái ăn đủ một
ngày như cha ông của họ và cũng sợ bị đuổi. Họ không quan tâm đến việc làm sao
để có thể vươn lên trong xă hội.
Trong vài xóm, người ta không thấy có được một nhà nào làm bằng gạch. Toàn là
những «ổ chuột» bằng tôn, trống trước trống sau. Thông thường người chồng đi làm
những nghề không cần chuyên môn như: lượm ve chai, bôm quẹt ga, thợ phụ hồ.
Chồng đi làm, c̣n bà vợ ở nhà làm ǵ? Đúng ra là «nhàn cư vi bất thiện». Ở nhà
không việc làm th́ quư bà tụ tập nhau đánh bài. C̣n con trẻ th́ lang thang chơi
đùa trong xóm. Học hành th́ chẳng bao nhiêu và thật sự, họ cũng không biết học
để làm ǵ! Không nghĩ ǵ đến tương lai, đến những ngày mà ông chồng không c̣n
sức khỏe để đi làm. Một cuộc sống bấp bênh thực sự.
Đời sống nhân bản mới là vấân đề nhức nhối. Cha mẹ chỉ quan tâm đến nhu cầu vật
chất thành ra để con lêu lỏng, sống theo bản năng của chúng. Khi thấy con ḿnh
nói tục, chưỡi bạn bè, trước mặt cha me, nhưng họ không một phản ứng. Nếu hỏi
sao chị không giáo dục chúng? Họ sẽ trả lời «tôi không biết giáo dục làm sao!»
Vài cha mẹ cũng biết lo cho con, sợ con «mất gốc», nên t́m chỗ cho con học tiếng
Việt. Nhưng cần là con cái học phải học tiếng Khmer, nói cho rành tiếng Khmer,
đó là con đường duy nhất để ḥa nhập xă hội, để có chỗ đứng của ḿnh trong xă
hội Campuchia. Nếu không con cái cũng sẽ như cha mẹ chúng, sống bên lề xă hội
người Khmer trong cái xóm nhỏ bé nầy, chẳng phải người Khmer cũng chẳng phải
người Việt.
Vấn đề kỳ thị chủng tộc. Giữa người Việt và người Khmer có một sự thù hận truyền
thống, dai dẳng, từ hồi cha ông đến bây giờ. T́nh thật mà nói, người Khmer rất
thật thà và không thích gây hấn. Nhưng ngược lại người Việt th́ quá ma-lanh,
thường gạt người Khmer trong việc buôn bán, không lương thiện đối với chất lượng
hàng hóa, đến nỗi có một thời, người dân Khmer gán cho hể hàng hóa nào «dỏm» là
hàng Việt Nam. V́ vậy mà để tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra, người Việt
sống trong cộng đồng người Khmer không nói tiếng Việt, cho dù họ nói chuyện với
nhau. Nói chung, người Khmer “khoái” người Châu Aâu hơn người Việt-Nam. Thế
nhưng, tỉ số người Việt ở bên Cam có đến 40%.
Về mặt tôn giáo, Phật giáo được coi như là quốc giáo ở Cam. Phần đông những
người công giáo là người gốc Việt, nhưng rất thiếu người để giúp họ sống đạo.
Các linh mục thay phiên nhau đến làm lễ hay ban các phép bí tích, có khi một lần
một tuần, có khi phải 2, 3 tuần mới có Thánh Lễ. Giáo dân cảm thấy rất cần có
các nam hay nữ tu đến để giúp họ sống đạo cách sâu đậm và có hiệu quả hơn. Một
bà phụ trách việc chăm sóc nhà thờ tâm sự : «Tôi nói họ đâu có nghe v́ họ thấy
tôi đâu có hơn ǵ họ. Chúng tôi cũng cố gắng tổ chức nầy nọ long trọng vào những
ngày lễ lớn. Nhưng chúng tôi đâu biết ǵ về giáo lư. Làm sao chúng tôi dạy cho
con cháu chúng tôi được? Không biết lớn lên rồi chúng sẽ ra sao?».
Trong cuộc thăm gặp Giám Mục Giáo Phận Phnom Penh (giám mục Emile), chúng tôi
tŕnh bày đến tham quan Campuchia và xin phép, nếu thuận lợi về phía giám mục
cũng như về phía nhà Ḍng, cho anh em La San trở lại Campuchia. Vị giám mục rất
vui mừng khi hay tin nầy và c̣n cho biết ngài là cựu giáo sư của trường Miche.
Ngài dặn ḍ chúng tôi, đến Campuchia là làm việc cho người Campuchia, chứ không
phải là cho người Việt. V́ vậy, các Frères phải học tiếng Khmer. Chúng tôi hứa
xin tuân lệnh.
Sau khi được phép của giám mục, sư huynh Giám Tỉnh tính toán với anh em trong
cộng đoàn Nhà La San Việt Nam, San Jose, về việc gánh vác tài chánh cho cộng
đoàn bên Cam, nếu việc thành lập cộng đoàn được chấp thuận.
Vào mùa Xuân năm 2005, trong tỉnh công hội khóa 3, Sư huynh Giám Tỉnh tŕnh cho
Tỉnh Công Hội báo cáo tham quan Campuchia để hỏi ư kiến Tỉnh Công Hội có chấp
thuận La San trở lại Campuchia không. Trong dịp nầy, sư huynh Giám Tỉnh cũng cho
biết vấn đề tài chánh sẽ do anh em bên San Jose đài thọ. Kết quả đầu phiếu là 23
thuận và 01 phiếu chống. Khi có kết quả nầy, sư huynh Giám Tỉnh tŕnh lên Bề
Trên Tổng Quyền chuyến đi tham quan, kết quả cuộc gặp gỡ với Đức Cha và kết quả
bầu phiếu của anh em Công Hội Viên để xin ư kiến của ngài và nếu thuận th́ xin
«ban phép lành» cho công cuộc nầy. Bằng điện thư, hội đồng cố vấn trung ương tại
Rôma “ban phép lành” như sau:
Wednesday, March 23, 2005
Subject: Opening of a Community in Phnom Penh
Brother Grégoire Tan, FSC
Visitor
District of Vietnam
Dear Brother Grégoire,
Please find attached a copy of Protocol No. 050309, which was approved by
Brother Superior General with the unanimous advice of the members of the General
Council present, at their meeting held in Rome on 23 March 2005. This decision
was made in response to your request to Brother Superior dated March 17th, 2005,
seeking approval for the opening of a Community in Phnom Penh in the Kingdom of
Cambodia.
Fraternally yours,
Brother Peter Gilfedder
Executive Secretary
----------------------------------------------------------------
General Council meeting 05/14
Protocol No . 050309
GENERAL COUNCIL DELIBERATION
District: Vietnam
Topic: Request for opening a new Community in Phnom Penh, Cambodia
Explanation: Brother Grégoire Tan, Visitor of the District of
Vietnam, wrote to Brother Superior, presenting a Cambodia mission proposal.
The proposal is for the Brothers of Vietnam, in conjunction with Vietnamese
Brothers working in San Jose, District of San Francisco, to make a return to
Cambodia, where there were Brothers from 1906 to 1973. The plan is to open a new
Lasallian mission in Cambodia before it becomes difficult to get government
permission, this being the advice of a group of Religious who are there.
The short term plan is to send 3 to 4 volunteer Brothers to form a community in Phnom Penh. The Brothers would spend the first year being inculturated into the Cambodian way of life through a study of the language and culture. They would render some educational service to the poor and participate in the catechetical ministry of the local Church. They could rent a house or an apartment with about six rooms in a low-income neighbourhood. At the end of the first year they would present an evaluation and a proposal for a long term mission to Brother Visitor and the District Council for consideration before it is forwarded to Brother Superior and his Council.
In a second phase they would subcontract with the Maryknoll Fathers and Brothers to take care of 5 to 10 children with HIV as a good way to get entry visas for work in the Kingdom of Cambodia. They could offer some vocational classes such as in computer studies.
The Brothers in San Jose, San Francisco District, would assume the fund-raising for this mission with the permission of the Visitor of San Francisco. An endowment fund of $200,000 would be set up to support this mission of the District of Vietnam. The projected cost of the mission would include a rental fee of $600 per month. Room and board and other expenses would entail $50 per Brother per month.
District Council: 12-13.02.2005 YES: 23 NO: 0 Abst.: 1
Brother Visitor’s opinion: In favour
Vote of General Council: Date: 23.03.2005 YES: 4 NO: 0 Abst.: 0
Decision of Brother Superior General: YES
Trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến nay, Cộng đoàn La San Đức Tin tiếp đón
nhiều anh em từ khắp nơi tụ về. Các sư huynh thay phiên nhau đến từ Việt-Nam để
làm mục vụ vào các mùa Chay, Noel hay Tết âm lịch và vào dịp hè. Đây là một môi
trường rất thuận lợi để anh em tiếp cận với người nghèo và chia sẻ sự thiếu thốn
của họ về mọi mặt. Hân hạnh nhất là anh em họ Cam đă tiếp đón Huynh Tổng quyền
và Huynh Victor Franco (đến lần 2) vào tháng 3/2007 sau khi đến Việt-nam trao áo
ḍng cho các Huynh J.B. Cương và Giuse Cảnh. Cũng nên nhắc lại, thông thường,
trong một nhiệm kỳ, Huynh Tổng Quyền chỉ có thời gian đi thăm một nước một lần.
Nhưng đây là lần thứ 2 ngài đến Việt-Nam. Khi đến Cam, chúng tôi sắp xếp để ngài
gặp Oâng Bộ Trưởng Bộ Giáo dục, làm một bài thuyết tŕnh về giáo dục La San trên
thế giới cho một nhóm sinh viên của trường Đại Học quốc tế Pannasartra
University of Cambodia (PUC).
Vào hè 2007, Huynh Hiếu từ giă anh em La-Cam, Huynh Thế Anh đến gia nhập cộng
đoàn. Bắt đầu từ niên học 2007-2008, hai anh em Minh và Anh ghi danh học sinh
ngữ Anh để chuẩn bị vào Đại học nầy. Công việc chung của anh em trong thời gian
thích nghi nầy là quyết tâm học cho thạo nói và viết tiếng Khmer. V́ vậy mà
trong việc giao tiếp giữa anh em hằng ngày, cũng không nói bằng tiếng Việt. Ai
nói tiếng Việt sẽ bị phạt 100 ria!
Sau 3 năm làm việc tại xứ Chùa Tháp, sau khi tiếp xúc với đủ thành phần người
Khmer lẫn người Việt, người khá giă cũng như những kẻ cùng đinh, lăn lộn trong
khắp hang cùng ngỏ hẽm, anh em thấy xa xa một chân trời mới và ôm ấp những ước
mơ...
***
Đôi Lời Tâm Sự
Anh em chúng tôi thuộc Hội Ḍng Anh Em Trường Kitô, hay thường được gọi tắt là
Ḍng Lasan, do Thánh Jean Baptist de la Salle sáng lập vào nửa cuối thế kỷ thứ
17 tại nước Pháp. Tôn chỉ và mục đích của Hội Ḍng là qui tụ những người t́nh
nguyện dấn thân phục vụ giáo dục giới trẻ, đặc biệt trẻ nghèo bất hạnh. Từ đó
đến nay Hội Ḍng đă phát triển trên 80 quốc gia với gần 7000 thành viên tự
nguyện trọn đời dấn thân v́ lư tưởng trên.
Thật ra, Hội Ḍng Lasan đă hiện diện tại Cambodia từ 100 năm về trước qua các
Frères người Pháp, và lớp học đầu tiên chỉ là một nhà sàn được xây dựng tại
Bat-tam-băng. Đây là một tỉnh nằm sát biên giới với nước Thái Lan. Sau đó, do
nhu cầu giáo dục ngày càng tăng, và đồng thời để việc phục vụ được bền vững hơn,
các frères xây dựng thêm một trường với qui mô lớn ngay tại Phnom Pênh, thủ đô
Cambodia.
Từ đó đến khoảng năm 1969, Hội Ḍng đă đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước
Cambodia. Khi cuộc nội chiến tại đất nước Cambodia bắt đầu trở nên dữ dội hơn,
Hội Ḍng đă quyết định tạm ngưng hoạt động v́ lư do bảo toàn tính mạng cho các
nhân viên của ḿnh.
Khi ḥa b́nh được văn hồi, Hội Ḍng đă nghĩ ngay đến những nạn nhân của chiến
tranh, những người đang phải đối diện với biết bao mất mát to lớn về mọi phương
diện. Đặc biệt là những trẻ em vẫn chưa được đến trường, chưa hưởng được những
ngày tháng tươi đẹp của tuổi thơ. V́ thế, qua vài lần thăm ḍ, anh em chúng tôi
được phái sang đất nước Cambodia này, và ngày 4 / 8 / 2005, anh em chúng tôi
chính thức thành lập Cộng Đoàn Đức Tin, tại Boeung Tam Pun, thuộc thủ đô Phnom
Pênh.
Trung thành với lư tưởng và mục đích phục vụ giáo dục người trẻ, đặc biệt trẻ
nghèo và bị bỏ rơi, đầu tiên, anh em chúng tôi t́m đến với những trẻ em tại các
làng người Việt đang sinh sống. Mặc dù có nhiều gia đ́nh, qua mấy thế hệ, sinh
sống trên đất Cambodia này, nhưng họ lại là những thành phần có thể nói là nghèo
nhất. V́ nghề nghiệp chính của họ phần lớn dựa vào đánh bắt cá ven sông. Cách
đây 15 – 20 năm cá ở ḍng sông này rất nhiều họ chỉ cần quẳng lưới xuống rồi kéo
lên là có cá ăn. Nhưng nguồn tài nguyên này càng ngày càng cạn kiệt. Mặc khác,
họ chưa được chính phủ chính thức công nhận là công dân của Cambodia, nghĩa là
họ không có giấy căn cước, con cái chưa được làm giấy khai sinh, và như vậy, họ
không có đủ tư cách pháp nhân để làm chủ đất đai, và thậm chí nếu có họ cũng
chẳng có chút đất nào để mà làm chủ. Hầu như họ chỉ sống tạm bợ qua ngày, chạy
cơm từng bữa. Do đó, trẻ em tại các làng người Việt phần lớn không được học hành.
Đây chính là mối quan tâm hàng đầu của anh em chúng tôi.
Đầu tiên, anh em chúng tôi đến làm quen và tổ chức sinh hoạt với các em. Dần dần,
nhận thấy những nhu cầu cấp thiết của các em, nên anh em chúng tôi, nhờ sự trợ
giúp của các ân nhân, đă giúp xây dựng lại những lớp học vỡ ḷng cho các em tại
những làng này. Bên cạnh đó, anh em chúng tôi nỗ lực đưa các em đến trường qua
việc giúp một số học bổng. Ngoài ra, nhân những ngày lễ lớn như Tết, Trung Thu
hay Giáng Sinh, anh em chúng tôi cũng mang đến cho các em những món quà, tuy đơn
sơ, nhưng tạo ra những giây phút thoải mái cho các em, vốn không được ai quan
tâm chăm sóc.
Chúng luôn cần đến sự hỗ trợ về mặt tinh thần cũng như vật chất. Trong tinh thần
liên kết để phục vụ giáo dục trẻ nghèo, một số bạn trẻ từ Việt Nam, Mỹ, Pháp...
đă đến với anh em chúng tôi. Cũng qua những tấm ḷng luôn mỡ ra cho trẻ nghèo
này mà anh em chúng tôi có dịp làm quen với anh Công. Nhân dịp này, anh em chúng
tôi vô cùng biết ơn những động viên của anh Công, và qua anh Công, chúng tôi xin
chân thành ghi ơn quư Ân Nhân. Chúng tôi sẽ luôn nhớ đến quư Ân Nhân và thân
quyến trong lời cầu nguyện, và chúng tôi cũng tin rằng, tất cả những ai được sự
giúp đỡ của quư Ân Nhân cũng sẽ cầu nguyện cho quư Ân Nhân.
Một lần nữa anh em chúng tôi đại diện cho tất cả các phụ huynh và các em học
sinh xin chân thành cảm ơn quư ân nhân đa ơcó ḷng nghĩ đến những người kém may
mắn, và bằng cách này hay cách khác đă cố gắng chia sẽ để đem đến cho họ đặc
biệt là các em nhỏ một mầm hy vọng để thoát khỏi cảnh nghèo.
Cambodia ngày 14 / 4 / 07
Frère Dominique Phùng thế Minh
Frère Nicolas Phạm Trung Hiếu
Frère John Baptist Trần Đ́nh Hiệp
***
Mừng Xuân Bính Tuất
TRÊN ĐẤT NƯỚC CHÙA THÁP
Được tham gia công tác mục vụ cùng cộng đoàn Học viện trong thời gian 9 ngày c̣n đọng lại trong tôi nhiều suy nghĩ về “xứ truyền giáo này”. Xin được lược sơ qua vài cảm nhận cũng như những công việc nhỏ bé mà chúng tôi vừa thực hiện từ khi bước vào ranh giới Campuchia cho tới khi bước trở lại đất Việt Nam. 9 giờ sáng ngày 24 tháng 1, 6 anh em chúng tôi lên xe tại Sàig̣n để hướng về Nam Vang, hơn 1 giờ đồng hồ xe đă đến cửa khẩu Mộc Bài, tốn hơi nhiều thời gian cho thủ tục nhập cảnh, nhưng chúng tôi đă đến Nam Vang khi trời chưa kịp tối. Được Frère Hiệp dẫn về cộng đoàn Nam Vang nghỉ ngơi và lên kế hoạch cho các công tác đă dự định. Sau khi ăn tối diễn ra một cuộc họp ngắn để phân chia cho anh em những việc sẽ làm vào ngày hôm sau.
Tôi, Frère Hưng, Frère Minh Dominique lănh toàn bộ việc mua sắm dụng cụ chuẩn bị cho tṛ chơi, sinh hoạt. Frère Hiệp, Fr. Hiếu, Fr. Đoài lo phần quà (đây chỉ mới dự trù cho họ đạo B́nh Di). Sáng 26/1 chúng tôi được cô giáo Vân từ B́nh Di lên đón về họ đạo, một họ đạo gần ngay biên giới Việt Nam. Khoảng 9g30 xe chúng tôi đă tới. Bà con trong họ đạo cùng nhau gói bánh, nhưng số gạo quá nhiều nên công việc chẳng đơn giản. V́ không ai là chuyên gia nên tiến hành rất chậm. Anh Em Học viện cũng cùng bà con người buộc giây, người xé lá đến quên cả giờ cơm trưa. 14g00 th́ anh em tạm ngưng gói bánh để lo sinh hoạt vui chơi cho khoảng 150 em Thiếu nhi. Thật vui nhưng cũng rất mệt v́ các em hầu như chưa có kỷ luật cũng như chưa biết chơi các tṛ chơi mà chúng tôi tổ chức. Sau gần 2 tiếng sinh hoạt, hát ḥ th́ mỗi em nhận được phần quà của ḿnh và tạm thời giải tán. Chúng tôi lại tiếp tục cùng bà con gói bánh đến gần 22g00 mới xong. Tranh thủ những nồi bánh chín trước, anh em phân ra làm 2 nhóm để đến thăm khoảng 50 gia đ́nh sống len lỏi trong khu nghĩa trang (v́ sợ hôm sau không kịp giờ). Đă gần 11h00 khuya, anh em ai cũng mệt, một vài anh em tranh thủ nằm nghỉ, tuy nhiên một hai anh đă t́nh nguyện hy sinh canh bánh v́ bà con chẳng c̣n ai ở lại.
Sáng hôm sau 27/1 dù rất mệt mỏi v́ mọi sinh hoạt b́nh thường bị xáo trộn, anh em cũng mau mắn phân công để đi thăm gần 100 gia đ́nh c̣n lại. Công việc kết thúc lúc gần 9g00, chúng tôi tranh thủ về ngay họ đạo “Xă An”. Sự việc lại ngoài dự định v́ bà con sợ gói không kịp nên đă hoàn toàn mua bánh chợ, công việc của anh em chỉ c̣n lại là sinh hoạt với các em nhỏ và đi thăm hỏi bà con. Xét thấy không cần ở lại hết, nên Frère Hiệp đă đề nghị chia bớt số anh em về họ đạo “Hố Trư”. Tôi và Frère Hiếu thuộc số 2 anh em được cử đi. Đến Hố Trư đă 14g00. Ban hành giáo vui vẻ đón tiếp và chỉ chỗ cho tạm nghỉ ngơi. Hai anh em chưa kịp rửa mặt th́ các em nhỏ nghe tin có “ông Thầy” đến thế là chúng rũ nhau tới nên chúng tôi phải nhập cuộc luôn. Cùng chơi với các em đến khoảng 16g30 th́ đề nghị các em tạm ngưng khi trên tay mỗi em là một bong bóng và một chiếc kèn, trước khi chúng chịu ra về chúng đă cho 2 chúng tôi một bản nhạc đinh tai nhức óc v́ gần 70 chiếc kèn nhựa thi nhau phát ra âm thanh.
Về phần người người lớn, nhờ sự khéo léo của ban hành giáo, việc tổ chức gói bánh đă chia làm 3 nhóm : bà con làm rất nhanh, anh em không phải phụ vào nên dành toàn thời gian cho các em nhỏ. Tranh thủ lúc các em đang có đồ chơi, anh em chúng tôi vội vàng tắm rửa và dùng cơm tối, cơm chưa xong th́ ngoài sân các em đă lại đến dù chúng tôi đă dặn 8g00 sáng hôm sau mới đến.
Không bỏ lỡ cơ hội, Fr. Hiếu tổ chức luôn một buổi văn nghệ do các em tự diễn, điều ngạc nhiên là các em rất hăng say tŕnh diễn, nhóm này hát chưa xong th́ nhóm khác đă lên dành chỗ, cứ thế liên tục hơn 1 tiếng khiến Fr. Hiếu mệt lữ trong vai tṛ làm “ông Bầu”. Tới phiên tôi tạm thế để Fr. Hiếu có thời gian để thở, tôi cũng chỉ giữ vai tṛ điều khiển cho nhóm nào lên trước cộng thêm vài bài hát sinh hoạt ngắn tôi tranh thủ tập cho các em. Cả 2 anh em đều mệt nhưng các em nhỏ th́ hầu như không biết mệt là ǵ, t́nh h́nh căng thẳng th́ đột nhiên ông Trùm Trưởng báo tin có thêm các Thầy xuống giúp, như người đuối gặp phao, 2 anh em chúng tôi tạm an tâm v́ từ dưới bờ sông xuất hiện bóng Bề Trên Tùng, F. Minh, F. Tú, F. Lực. F. Cường, F. Minh Dominique, F. Thái, F. Đa, các Frères nhập cuộc luôn giúp các em vui chơi đến 21 giờ th́ giải tán và nghỉ đêm.
8 giờ sáng 29/1 chúng tôi chia làm 2 nhóm, một nhóm tổ chức sinh hoạt, phát quà cho các em, một nhóm chia nhau đi thăm hỏi bà con xóm đạo đến 10 giờ th́ kết thúc, chúng tôi xuống ghe trở về Nam Vang. tại cộng đoàn nam Vang, sau bữa cơm tối thân mật, chúng tôi cùng nhau canh thức đón giao thừa. 11g30 (23 giờ đêm) cả thảy anh em cùng quây quần cầu nguyện để chuẩn bị đón năm mới, thời khắc đă đến chúng tôi cùng dâng lời tạ ơn và cùng chia sẻ với nhau bữa ăn thân mật không thiếu rượu mừng và lời chúc đầu xuân của BT. Phó Giám Tỉnh cũng như Frère đại diện cộng đoàn Nam Vang. Chúng tôi nghỉ đêm khi bước qua năm mới đă hơn 1 giờ.
Mọi việc trong năm cũ đều tốt đẹp, ngày đầu năm mới, sau Thánh lễ Tân Niên do cha sở người Ư làm bằng tiếng Miên, chúng tôi chẳng hiểu ǵ ngoài các công thức quen thuộc. Chiều mồng một, anh em được tự do đi xem phố đồng thời chuẩn bị quà cho buổi sinh hoạt sáng mồng 2 Tết tại họ đạo “Chùm Pa”. Tranh thủ buổi chiều rănh rỗi một số anh em xin phép đi tham quan cánh đồng xương khô, một biến cố lịch sử của Campuchia khi nghe kể lại, ai ai cũng rùng ḿnh. Hết ngày mồng một tốt đẹp, tối đến anh em cùng nhau chia quà thành từng phần để 7g45 sáng mồng 2 sẽ đến vui chơi với các em tại họ đạo “Chùm Pa”. Tại họ đạo này, chúng tôi không tổ chức gói bánh, nhưng chỉ dành ưu tiên cho việc sinh hoạt thiếu nhi, thế nên công việc tiến hành khá gọn gàng trật tự bởi được chia thành 3 lứa tuổi khác nhau. Từ 0 -> 6 tuổi chơi riêng, c̣n lại từ 7 -> 15 tuổi chia làm 2 nhóm, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi lộn xộn v́ các em rất hăng hái nên luôn muốn dành phần chơi trước. 9g45 th́ cả 3 nhóm tập trung tại hội trường để xem phần biểu diễn văn nghệ của các em ca đoàn và tiết mục mùa “đầu gối” đặc sắc của các Frères. Công việc xong lúc 10g30, chúng tôi lên xe quay về cộng đoàn để dùng cơm trưa và sau dó dọn dẹp hành lư v́ sẽ có xe về Việt Nam vào sáng mồng 3 Tết.
Chuyến đi công tác tại Nam Vang khép lại khi chúng tôi lên xe rời Phnom Penh lúc 9g15 để hướng về Sàig̣n. Xe chạy liên tục hơn 4 tiếng th́ đă tới biên giới. Mọi thủ tục xong xuôi đă gần 14g00, do vậy dự tính về đến nhà lúc 15g00 th́ đă phải lui lại tới 16g15. Một chuyến đi 9 ngày của 6 anh em và 7 ngày của 6 anh em c̣n lại đă kết thúc tốt đẹp dù cho công việc không hoàn toàn thuận lợi như đă dự định. Sau chuyến đi này, nơi bản thân tôi có một vài nhận xét như sau : Phần lớn những gia đ́nh tôi gặp nơi 4 họ đạo tôivừa tiếp xúc đều nghèo cả về vật chất lẫn tinh thần, tuy nhiên họ chưa phải là những người nghèo nhất so với các họ đạo ở Việt Nam mà tôi cũng đă từng được tiếp xúc. Điều bi đát đối với họ chưa hẳn là công ăn việc làm cho bằng tương lai phía trước, v́ chính sách nhà nước đặt họ trong t́nh trạng bấp bênh, hầu như không có quyền đ̣i hỏi mỗi khi bị ức hiếp (nhất là họ đạo Hố Trư), do đó các trẻ em khi đến trường đôi khi phải dấu không dám tiết lộ ḿnh là người Việt Nam v́ sợ bị kỳ thị, các thanh niên Việt Nam nếu có lỡ bị thanh niên Miên ức hiếp th́ một là im lặng hoặc phản kháng rồi bỏ trốn luôn khỏi xứ.
Về phần thiêng liêng, hầu như các em chưa được học giáo lư cách quy cũ, nhưng chỉ được hướng dẫn trong một thời gian ngắn hạn trước khi nhận lănh bí tích, nên khi được hỏi, một số em chẳng hiểu ǵ về đạo ngoài một vài thói quen được cha mẹ thúc dục đi nhà thờ mỗi khi có Thánh lễ. Trước các nhu cầu mênh mông như thế, tôi vẫn thầm nguyện ước được góp một phần bé nhỏ nào đó và cầu mong cho chương tŕnh của Ḍng mau bén rễ và phát triển trên mảnh đất này.
Vincent Vũ Thái Ḥa