Theo thủ tục tị nạn, chúng tôi được chia thành từng nhóm, mỗi nhóm khoảng 50 người trong một pḥng lớn “cách biệt” với những người khác trong ṿng 3 ngày. Khám sức khỏe, chích ngừa cần thiết, v.v... là việc đầu tiên mà mỗi “thuyền nhân” vừa nhập trại phải làm. Đến ngày thứ ba, mỗi người - độc thân thật sự hoặc độc thân tại chỗ, cũng như những người tuy cùng đi với gia đ́nh mà trên 21 tuổi, có thể tự đứng ra làm một đơn vị độc lập hoặc theo đơn vị gia đ́nh - chụp h́nh lăn tay, v.v... làm hồ sơ tị nạn. Nhóm 62 và Nhóm 162 được tàu Mỹ cứu vớt nên được ưu tiên tiến hành việc thành lập hồ sơ tị nạn.

Tôi được biết tính chất “thật sự Việt Nam” trong việc tổ chức hành chánh cũng như sinh hoạt xă hội của trại tị nạn. Một số người Việt tị nạn - c̣n được gọi là “thuyền nhân” - đến Phi Lật Tân ngay sau khi miền Nam Việt bị lọt vào tay cộng sản Bắc Việt ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chính phủ Phi mở rộng đôi tay chào đón những “thuyền nhân” này. Nhân dân Phi thân t́nh tiếp đón giúp đỡ và dung dưỡng, khác hẳn một số chính phủ và nhân dân trong vùng Á Châu khác đă bạc đăi hoặc lạm dụng họ. Liên Hiệp Quốc đă mở trung tâm Palawan để tiếp đón, tiến hành thủ tục hồ sơ tị nạn - cũng như để phát giác phân loại những người lạm dụng danh nghĩa tị nạn như trường hợp điển h́nh sau đây: Sau khi xem xét hồ sơ tị nạn của ông X, tự xưng là cựu quân nhân chế độ Saigon, có thẻ bài số quân đầy đủ, ban hồ sơ phát hiện ông X là một bộ đội “có mặt bên kia bờ sông Thạch Hăn trong đợt trao đổi tù binh”. Bằng chứng với photo rơ ràng, ông X hết đường chối căi.

Phần khai báo lư lịch đầu tiên, lẽ tất nhiên quan trọng nhất. Phải công nhận Ban thiết lập hồ sơ đă được huấn luyện và hướng dẫn thật chu đáo. Tập hồ sơ của mỗi người được tŕnh lại cho nhân viên Liên Hiệp Quốc Đặc Trách Ngành Tị Nạn Chính Trị (UNHCR) kiểm lại.Những thuyền nhân hội đủ tiêu chuẩn “tị nạn” sẽ đưa đến các quốc gia thích hợp để được phỏng vấn và “làm lại cuộc đời” theo qui chế tị nạn.

Tôi thành thật thú nhận rằng khi được hỏi “Muốn định cư tại quốc gia nào?” tôi đă lưỡng lự khá lâu. Gia đ́nh anh bạn thân thiết nhất và là ân nhân giúp tôi “đổi đời”, Rémy Hiển, Nguyệt và Hiền, chắc chắn sẽ xin định cư tại Úc đoàn tụ gia đ́nh với Bác Ba (Xin xem lại Hồi Kư tập 1, trang 602), và khuyến dụ “năn nỉ” tôi cùng đi Úc. Mặt khác, thành thật mà nói, mặc dù trong suốt thời gian “t́m đường cứu nước” tôi chưa nghĩ đến việc sẽ định cư ở quốc gia nào mà chỉ mong thành công thoát nạn cộng sản. Tấm ḷng nhân ái của Bác Ba, t́nh thân chân thật của gia đ́nh Hiển-Nguyệt-Hiền đối với tôi, đă khắc ghi trong tâm hồn tôi một ấn tượng êm đẹp của mái ấm gia đ́nh.

Khi được tàu Mỹ cứu vớt với những ưu tiên có được, và nhất là sau khi trao đổi tṛ chuyện với các Brothers người Phi, th́ những h́nh ảnh Huynh Đệ của tôi ở Việt Nam lại ẩn hiện trong trí. Tôi bắt đầu nghĩ đến việc xin định cư ở Mỹ v́ nghĩ rằng tôi sẽ có thể có nhiều phương tiện hơn để gọi là “nhớ thương Huynh Đệ trong buổi gian truân”. Phản ứng của gia đ́nh anh Rémy Hiển khi nghe tôi trả lời “Xin định cư ở Mỹ” làm tôi ray rứt không ít.

Khoảng hơn 1 tuần sau, tôi nhận được điện tín của Huynh tổng quyền José Pablo, vỏn vẹn vài chữ: “CONGRATULATIONS! VA JOINDRE LES FRERES EN NOUVELLE CALÉDONIE!” (Chúc Mừng! Đi Đến Tân Đảo với Huynh Đệ!) Tân Đảo? Ở đâu? Xứ sở nào mà nghe lạ hoắc! Tôi đem điện tín đến cho viên Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, Mr. Bob. Ông nh́n tôi, ngạc nhiên, rồi nói: “”You’ vừa thoát nạn cộng sản, lại lao đầu vào ‘xă hội xă-hội-chủ-nghĩa’?” Tôi giật nẩy người, tự nhủ, “Chẳng lẽ ḿnh tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa?” Ông Bob cười nói: “’You’ suy nghĩ lại rồi trả lời cho ‘me’ vào tuần tới!”

Th́ ra Tân Đảo là một thuộc địa của Pháp. Đảng cầm quyền chính phủ Pháp thời đó lại là đảng Xă Hội. Các bạn “thuyền nhân” đến Palawan trong vài năm/tháng trước kể lại rằng có nhiều thuyền nhân sẵn sàng chờ đợi để được đi Mỹ, c̣n hơn là đi Pháp, mặc dù có thân nhân gia đ́nh đang định cư tại Pháp bảo lănh. Thậm chí có lần máy bay của Pháp đến phi trường Princesa City đón các thuyền nhân đi định cư tại Pháp, nhưng các thuyền nhân đă có tên trong danh sách lại “chạy trốn” để khỏi đi Pháp. Các câu chuyện bàn đi tính lại giữa những người “đồng thuyền đồng hội - cùng hoàn cảnh trong cuộc sống” càng làm tôi khó xử.

***

Chiều ngày đầu tiên ra khỏi “nhà biệt lập”, tôi được mời tham dự buổi họp gồm những linh mục, tu sĩ và đại chủng sinh hiện có mặt tại trại tị nạn. Nhờ dịp này, tôi làm quen và khám phá được vài điều khá lư thú:

1. Linh mục Trinh đến Palawan hơn vài tháng nay, từ một chuyến vượt biển khá gay go xuất phát từ Hà Nội. Linh mục cho biết đă ở tù cộng sản trên 10 năm tại Hà Nội ngay sau khi được phong chức “chui”. Linh mục thú nhận đă không được học hỏi về chức năng linh mục, về thần học, mà chỉ biết ít nhiều về phụng vụ và tế tự - vừa đủ để có thể làm lễ, ban các phép bí tích, v.v... Linh mục đang đợi chờ sự chấp thuận của chính phủ Úc cho định cư tại Sidney [Linh mục Trinh khỏi đợi lâu: chỉ hơn hai tuần sau, chính phủ Úc cấp giấy tị nạn và đem linh mục đến định cư tại Sydney. Điều hy hữu mà tôi nghe biết được về lai lịch của “linh mục” Trinh: Giáo phận Sidney điều tra kỹ lưỡng về giám mục chủ tế, ngày, tháng, địa điểm phong chức - mặc dù là “chui” - cho “ông” Trinh và kết quả là không t́m được bằng chứng nào. Có thật sự ‘ông’ này là linh mục không? Hay là một Jim Carmody trong The Left Hand of God? Hiện nay “ông” Trinh sinh sống như là một giáo dân tại Brisbane.]
2. Đại chủng sinh Huỳnh, người nhà của “thầy Râu Thức” (Xin xem lại Hồi Kư tập 1, trang 557) cùng chuyến vượt biển với tôi. Thầy Huỳnh có nhiều tài năng, nhất là chuyên về sinh hoạt hướng đạo, nên tổ chức hướng đạo tại trại tị nạn Palawan, tại nên nhiều sinh khí mới, năng động và hào hứng thêm cho giới trẻ trong trại tị nạn [Thầy Huỳnh cùng gia đ́nh định cư tại Houston, Texas. Thầy tiếp tục học và thụ phong linh mục thuộc địa phận Houston. Linh mục Huỳnh được bổ nhiệm làm chánh xứ nhà thờ chánh ṭa Houston. Linh mục qua đời thật bất ngờ v́ bệnh tim.]
3. Đại chủng sinh Vinh tại Sao Biển, Nha Trang. Chủng sinh Vinh cùng đi vượt biển với người em trai Cảnh cùng gia đ́nh, đến trại tị nạn Palawan đă hơn 7 tháng, hồ sơ hai anh em đang xúc tiến tốt đẹp th́ “xui” gặp phải 2 nhóm 62 và 162 được tàu Mỹ vớt, nên phải đợi thêm vài tháng. Chủng sinh Vinh rất hăng hái nhiệt t́nh tiếp tay với các Nữ Tử Bác Ái chăm sóc các em “mồ côi” trong chương tŕnh CADP. Người em, Cảnh, cũng hăng hái sinh hoạt, gom tụ các em Thiếu Nhi Thánh Thể, chiêu mộ thêm các em mới, và sinh hoạt hằng tuần (8).
4. Đại chủng Sinh Phi, xuất thân từ Đại Chủng Viện thánh Giuse, Saigon, âm thầm làm “ông từ” và giúp đỡ rất nhiều cho “linh mục” Trinh.
5. Thỉnh sinh Luật, thuộc ḍng Biển Đức, cùng gia đ́nh vượt biển và đến Palawan từ đầu năm 1983. Vốn quen lối sống “chiêm niệm, ẩn thân” nên đại chủng sinh Luật ít tham gia công tác trong “họ đạo tị nạn” Palawan.
6. Hai thỉnh sinh thuộc ḍng thánh Phanxicô, anh Hoàng và Cửu, gần Đồi La San, Nha Trang. Là người “láng giềng” rất thân thiện với La San, nên 2 thỉnh sinh Hoàng và Cửu rất vui mừng chia sẻ những vui buồn lo âu của ḍng Phanxicô và La San trong khuôn viên Đồi La San những năm 1975-1983. Ḍng Phanxicô chịu những cảnh áp bức và chiếm đoạt không thua ǵ ḍng La San trong những ngày đầu của “đại thắng mùa Xuân”. Một số tu sĩ t́m cách lánh nạn và may mắn thoát được; một số khác đành chấp nhận “không có số... vượt biển” và di chuyển về Núi Sạn, hoặc nhập vào tu viện Dakao, Saigon. Hai thỉnh sinh Hoàng và Cửu “thua keo này bày keo khác” v́ không chịu tin vào “số vượt biển”, và kết quả là đă đến Palawan hơn 3 tháng nay [Sau khi “linh mục” Trinh được đưa đi Úc cùng với đại chủng sinh Phi, và v́ chưa có linh mục nào đến thay thế, hai thỉnh sinh Hoàng và Cửu đảm trách việc tế tự tại nhà thờ Palawan. Cũng “Suy Tôn Lời Chúa”, cũng các nghi thức chính của thánh lễ - ngoại trừ đọc lời truyền phép - hai thỉnh sinh đạo đức và nhiệt thành “việc Nhà Chúa” quả thật đă đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng và đáp ứng nhu cầu tâm linh cho giáo dân trong thời gian thiếu vắng linh mục. Khoảng hơn vài tháng sau, linh mục Kenneth được ḍng Biển Đức tại Mont Angels Seminary, Porland, gởi đến giúp trại Palawan. Hai thỉnh sinh sát cánh với linh mục Kenneth. Nhân ngày lễ thánh La San, quan thầy các nhà giáo, 15/5/84, tôi đề nghị xin linh mục Kenneth “treo giải thưởng” cho những bài viết lại cuộc vượt biển. Với sự tiếp tay nồng nhiệt của Hoàng và Cửu, ngày lễ được mừng trong hân hoan, vui nhộn. Được linh mục Kenneth đề nghị và bảo lănh, Hoàng và Cửu được cấp giấy tị nạn và định cư tại Porland. Hai thỉnh sinh ḍng Phanxicô chuyển sang ḍng Biển Đức, được thụ phong linh mục, và tiếp tục cuộc sống “dâng hiến để phục vụ”.]

Kết thúc buổi họp, linh mục Trinh “ra lệnh” tất cả các chủng sinh, thỉnh sinh và tu sĩ phải quy tụ về CADP để làm việc dưới trướng bà Soeur Pascale Tríu mà linh mục là “đại diện” được Soeur chỉ định. Linh mục c̣n thêm, “Quy tụ dưới trướng Soeur Pascale th́ các thầy, các anh sẽ khỏi lo vấn đề ăn ở và các tiện nghi khác, CADP sẽ lo cho các thầy và các anh thật chu đáo...” Tôi phản ứng đầu tiên, “Không! Tôi không lệ thuộc vào một ai, và tôi có chương tŕnh sinh hoạt tông đồ của tôi...” Các đại chủng sinh và thỉnh sinh khác tiếp lời, lao nhao phản đối “lệnh” của linh mục Trinh, làm linh mục lúng túng thấy rơ. Linh mục muốn chấm dứt sự lao nhao phản đối bằng một đề nghị xem ra khá khôi hài nhưng... thực tế: “Vậy th́ thôi, tụi ḿnh... nhậu!” - Thế là bia San Miguel không biết dự trữ từ đâu bày ra đầy bàn.

***

Việc điều hành trại Palawan hoàn toàn do người Việt đảm trách, với các ban điều hành và các ban ngành thích hợp. Đại khái như một guồng máy quốc gia trong khuôn khổ thật giới hạn của một trại tị nạn. Ban điều hành gồm có chủ tịch do dân bầu chọn với nhiệm kỳ 3 tháng - và có thể tái đắc cử 3 lần; chủ tịch chọn phó chủ tịch và thành lập “nội các” gồm các trưởng ban, như Ban Thông Tin Văn Hóa, Ban Bưu Điện, Ban Phân Phối lương thực, Ban Giáo Dục, Ban An Ninh. Nghe đâu “thuyền nhân” Việt Nam được hưởng quy chế tự trị tại trại tị nạn Palawan, là nhờ tài khéo léo và t́nh dân tộc của Soeur Pascale Lê Thị Tríu, một nữ tử bác ái sinh hoạt tông đồ lâu năm tại Manilla và là bạn học cùng khóa với bà tổng thống Imelda Marcos. Tuy gọi là “tự trị” nhưng thật ra là “dưới sự bảo hộ và bảo quản” của tướng tư lệnh vùng West Commando, tướng Fernandez.

Khi tôi mới đến Palawan th́ anh Lê Đức Ái cũng vừa được bầu làm chủ tịch ban điều hành trại. Anh Ái mời tôi nhận làm trưởng ban Giáo Dục. Thật ra trong trại tị nạn Palawan đă có 3 cơ quan do người Phi điều hành và UNHCR đài thọ lương bỗng cho giáo viên lo việc giảng dạy sinh ngữ cho các thuyền viên:
1. CADP = do các Nữ Tử Bác Ái điều hành. Công việc chính là chăm lo các em thiếu niên dưới 18 tuổi không có người lớn (cha mẹ hoặc bảo hộ) đi theo. CADP mở vài lớp dạy Anh ngữ; đặc biệt có lớp dạy nghề như may, thêu, thủ công, v.v... cho những ai muốn ghi danh học.
2. PPCS = do các giáo viên người Phi dạy Anh ngữ.
3. Đặc biệt “Vườn Trẻ” do ḍng nữ Franciscan điều hành.

Việc gởi con nhỏ đến “Vườn Trẻ” th́ khỏi cần kêu gọi khuyến khích, v́ có người “giữ em... miễn phí” th́ cha mẹ nào mà không mong muốn lại có giờ rảnh để “hưởng đời” đền bù lại những ngày tháng “sáng khoai lang chiều ḿ lát” th́ làm sao mà bỏ qua cho đặng! Ban Giáo Dục của trại bận tâm nhất là vận động người đồng hương ghi danh học Anh ngữ tại một trong 2 “trường” nêu trên. Nhưng h́nh như không mấy kết quả v́ nhiều lư do:

1. Một số thuyền viên đến Palawan vài tuần hoặc vài tháng rồi được đưa đi định cư tại các nước Canada, Úc, và vài nước Âu Châu như Na-Uy, Pháp... nếu có thân nhân ở các quốc gia đó bảo lănh.
2. Mặc dầu một số thuyền viên không được INS của Mỹ chấp thuận, nhưng kiên tŕ chờ đợi thời cơ “Mỹ đổi ư”. Tâm trạng chờ đợi lắm lúc mông lung chán nản, sinh ra không thiết tha ǵ đến việc học Anh ngữ.
3. Một số thuyền nhân - tuy không nhiều, “có vết tích ǵ đó” mà hầu như không một quốc gia nào chấp thuận, chỉ chờ đợi “sung rụng”.
Ví dụ vài trường hợp:
a. Anh X. đến trại Palawan đă hơn 3 năm mà không quốc gia nào đếm xỉa tới. Chỉ v́ “chủ trương ăn thịt đồng loại trong một chuyến vượt biển cam go, đói khát hơn 50 ngày lênh đênh trên biển cả”.
b. Những thuyền nhân từng là “anh chị” trong các băng đảng trước và sau 75, khi đến trại Palawan, hoặc bị tố cáo những vụ cướp của giết người, hoặc vẫn “chứng nào tật nấy” tưởng rằng “tự do là muốn làm ǵ th́ làm” mà quên hay cố t́nh quên phần thứ hai “nhưng KHÔNG được xâm phạm quyền vui sống của người khác”.
c. v,v...
Những thuyền nhân này, nếu không “vào tù ra khám” th́ cũng vào ra “chuồng khỉ” đều đều, làm ǵ c̣n tâm trí ghi danh học Anh ngữ?
4. Một lư do “tế nhị” nhưng thực tế khác, là phần đông những thuyền nhân đă thành công đạt đến bến bờ tự do thuộc thành phần lao động trước 75 và lam lũ kiếm sống sau 75, nên tŕnh độ học vấn chưa/không thích hợp lắm với việc ngồi yên nơi bàn học.

Trước khi tôi đến Palawan, Ban Giáo Dục của trại đă được thành lập dưới danh nghĩa Central Education Office - CEO (Văn Pḥng Giáo Dục Trung Tâm) do vận động và bảo trợ của một bà thiện nguyện người Mỹ, bà Eleanor, bạn thân của đại diện UNHCR, ông Bob. Tuy danh xưng này gây nhiều hiềm khích với các “trường” của người Phi, nhưng Trung Tâm vẫn hoạt động đều đặn nhờ tài khéo léo và tính t́nh hài ḥa của trưởng ban giáo dục trại, anh Hoàng Đ́nh Châu. Anh Châu đă động viên và quy tụ một số thuyền nhân biết và đă từng dạy Pháp hoặc Anh ngữ tại Việt Nam, trước cũng như sau 75, lập thành nhóm thầy cô tự nguyện giúp đồng bào chuẩn bị hành trang lên đường định cư tại Pháp hoặc Mỹ, hoặc một quốc gia nào có thể dùng được một trong hai sinh ngữ đó. Kết quả thật khả quan.

Trước hết, người Việt nói chuyện với người Việt - dù là nói tiếng “Tây” hay tiếng “Mẽo”, cũng tương đối dễ cảm thông và hiểu biết nhau hơn. Thêm vào đó, kèm theo những từ ngữ ngoại quốc - viết lên bảng đen phấn trắng cộng thêm giọng nói tương đối “cùng tầng số” - nên dễ hiểu hơn. Cuối cùng, để tập cho học viên làm quen với giọng nói của người ngoại quốc, các thiện nguyện ngoại quốc được mời đến nói chuyện. Có thể học viên không/chưa cần hiểu những ǵ họ nói, việc quan trọng là các học viên nghe và phân biệt được sự khác biệt giữa giọng nói của người ngoại quốc “mũi lơ” và người phe ta “mũi tẹt”. Tôi thay thế anh Châu được vài tuần th́ anh Châu may mắn lên đường định cư tại Calgary, Canada. Tôi tiếp tục đường lối và chương tŕnh mà anh Châu và ban giáo dục của trại đă ít nhiều thành công trong vài tháng trước.

Soeur Pascale Lê Thị Tríu, giám đốc chương tŕnh CADP, có dịp ghé thăm trại Palawan. Ban điều hành cùng toàn thể “nhân dân” vui mừng và hănh diện tiếp đón như một vị “sáng lập và ân nhân” của trại Palawan nói riêng, như một người “đồng bào” chăm lo cho những người Việt từng sinh sống tại Phi - cách riêng tại Manila - nhiều năm trước nhưng không được nhận làm công dân Phi nói chung.

Tôi tiếp chuyện với Soeur Pascale và tŕnh bày những hoạt động của CEO. Tôi thừa biết là chương tŕnh CADP và PPCS được hưởng sự trợ cấp của UNHCR và nhiều vị mạnh thường quân khác tùy vào số lượng học sinh, học viên ghi danh. Thêm vào đó chương tŕnh CEO sẽ ít nhiều giảm thiểu số học viên ghi danh vào một trong hai cơ quan do người Phi điều hành, và như thế ảnh hưởng đến sự trợ cấp. Mặc dầu Soeur Pascale muốn tôi về làm việc cho CADP, nhưng tôi vẫn một mực từ chối. Tôi nghĩ rằng “điều thuận tiện và lợi ích cho đồng bào ḿnh là quan trọng trên hết. Duy tŕ và bảo toàn CEO là đề cao danh dự của tính cách tị nạn của dân tộc ḿnh”.

Qua một hồi trao đổi, Soeur Pascale có vẻ giận, nói: “Mấy ông Frères, ông nào cũng vậy! Vài năm trước, ông Alexandre Lê Văn Ánh ở trại José Fabella Center cũng một luận điệu như ông Frère bây giờ!” Tôi cười đáp trả: “Cùng một ḷ mà! hihiihihi” Thấy Soeur Pascale dịu lại, tôi nói tiếp: “Tôi có đề nghị này nhé! Những cộng sự viên làm việc hoặc dạy tại CADP và PPCS đều có hưởng một chút thù lao, nhưng những anh chị em t́nh nguyện làm việc hoặc dạy tại CEO th́ không được ǵ cả. Tôi không có ư đ̣i hỏi, nhưng nếu Soeur thấy có thể tặng cho anh chị vài ly càphê hoặc vài chai San Miguel th́ cũng khích lệ cho anh chị em lắm chứ!” Soeur Pascale mỉm cười, ra chiều khó xử, nhưng cuối cùng cũng gật đầu ủng hộ 500 pesos/tháng cho anh chị em CEO “trà nước”. Tuy nhiên, sự ủng hộ này không kéo dài bao lâu v́ gặp sự chống đối của ban điều hành của các cơ quan khác, cũng như của UNCHR.

***

Sau khi nhận được điện tín của Huynh tổng quyền Pablo bảo tôi “chuyển hướng” về Tân Đảo, cộng thêm cảm tưởng của ông Bob và trưởng ban hồ sơ về việc “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”, tôi thật sự phân vân. Trong một chuyến thăm trại tị nạn Palawan, một du khách người Pháp cho biết khi tôi hỏi về thể chế chính trị của chính phủ đương thời: “La Partie Socialiste en France est totallement differente... Il ne s’agit rien de commun avec la Partie Communiste du Vietnam!” (Đảng Xă Hội Chủ Nghĩa của Pháp hoàn toàn khác biệt... Không liên quan ǵ với Đảng Cộng Sản Việt Nam!)

Tôi tự nghĩ “Có bao giờ ḿnh làm chính chị chính em ǵ đâu! Ḿnh chỉ thấy những con người đồng cảnh ngộ đùm bọc và thương yêu nhau. Những gương mặt non choẹt như hai em Cường và Hán (xin xem lại Hồi Kư tập 1, trang 423 và tt) với tấm ḷng T̀NH NGƯỜI quá đẹp... Như vậy đi đâu cũng được, miễn là cùng với Huynh Đệ phục vụ giới trẻ, và chắc hẳn Huynh tổng quyền Pablo có chủ ư trong chương tŕnh đó.” Tôi đến gặp trưởng ban hồ sơ và quyết định sửa lại việc xin định cư tại Nước Mỹ thành Tân Đảo. Ban hồ sơ kêu tôi lên “làm việc”. Một nhân viên người Mỹ của JVA, một cơ quan thiện nguyện (?) làm việc cho chính phủ Mỹ về vấn đề thiết lập hồ sơ tị nạn, chăm chú đọc hồ sơ của tôi và hỏi: “You are a religious?”
- Yes, I am a Brother of the Christian Schools.
- Are you a priest?
- No, I’m not.

Anh JVA có vẻ ngạc nhiên. Vài người Việt làm trong ban hồ sơ biết ḍng La San tại Việt Nam t́m cách giải thích, nhưng anh JVA xem như không hiểu ǵ hơn. Anh chạy t́m cuốn tự điển, t́m ṭi hồi lâu, rồi lớn tiếng nói: “I see! You are a ‘Friar!’ aren’t you?” Tuy chẳng hiểu “Friar” là ǵ, tôi vẫn đáp: “Yes!” Anh JVA nh́n tôi mỉm cười, rồi nói: “2 giờ chiều nay, anh đến pḥng bên kia, tuyên thệ, rồi nhân viên INS sẽ phỏng vấn”. Vài tiềng x́ xào mừng rỡ: “Frère hên quá! Nhanh thật đó!”
Tôi vừa bước vào pḥng phỏng vấn, cô/bà thông dịch nói: “Anh giơ tay phải lên, lập lại lời tuyên thệ theo tôi”. Tôi trả lời: “Tôi không đi Mỹ th́ tôi không cần tuyên thệ và phỏng vấn phải không?” Cô/bà thông dịch đáp: “Anh cứ tuyên thệ và phỏng vấn đi, nếu v́ lư do nào đó mà Pháp không nhận, hoặc anh đổi ư vào phút chót, th́ hồ sơ đi Mỹ của anh vẫn c̣n đây. Nếu anh từ chối tuyên thệ và phỏng vấn th́ sau này hồ sơ đi Mỹ của anh sẽ bị khóa sổ. Có chuyện ǵ thay đổi th́ rất khó khăn cho anh”. Suy nghĩ đôi chút tôi đáp: “Vậy th́ được!” Cô/bà thông dịch nói: “Vậy th́ anh giơ tay phải lên, lập lại theo tôi: ‘Tôi tuyên thệ nói sự thật, hoàn toàn sự thật, và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời khai của tôi’. Xong, mời anh ngồi đây.”

Ông nhân viên INS cúi đầu xuống xấp hồ sơ của tôi, chăm chú đọc rồi loay hoay viết hoặc khoanh tṛn ǵ ǵ tôi không biết. Cô/bà thông dịch nh́n tôi hỏi: “Anh là Frère La San phải không?” Tôi mỉm cười gật đầu . H́nh như cô/bà thông dịch đă đọc hồ sơ của tôi nên hỏi: “Frère khai là năm 1967-1970, Frère ở số 6 Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Vậy Frère có biết cây xăng ở góc đường Trần Hưng Đạo không?” Tôi cười nói: “Cây Xăng Kim Cúc phải không? Biết chứ! Tôi c̣n nhớ trong năm 68 hay 69 ǵ đó, có đám cháy khá lớn ở cây xăng Kim Cúc, chúng tôi chạy qua chữa lửa, dập tắt, hít khói muốn chết!...” Cô/bà thông dịch vui cười hớn hở, quay qua nói với ông nhân viên INS: “He knows my native village in Dalat!” Tôi giật nẩy người khi nghe ông nhân viên INS đáp bằng tiếng Việt: “Tôi biết!”

Từ đó, chẳng thấy hỏi về lư lịch của tôi, mà chúng tôi chỉ nói chuyện về Đà Lạt. Nào là Hồ Xuân Hương, nào là thác Prenn, nào là Hồ Than Thở, nào là Thung Lũng T́nh Yêu... Bầu khí “phỏng vấn” thật cởi mở vui tươi. Ông nhân viên INS lật đến trang cuối của tập hồ sơ đi Mỹ của tôi, viết thêm vài chữ ǵ đó, kư tên, rồi ngước mắt nh́n tôi mỉm cười vui vẽ. Cô/bà Kim Cúc nói: “Frère được nhận đi Mỹ rồi đó. Chúc mừng Frère!” Tôi đứng dậy bắt tay ông nhân viên INS, nói: “Thank You!”. Bắt tay cô/bà Kim Cúc, tôi cười nói: “Cám ơn chị. Chị có về lại Đà Lạt chưa? Cây xăng Kim Cúc c̣n đó không?” Cả hai cùng cười nói: “Chắc là mất tiêu lâu rồi!”

Ra khỏi pḥng phỏng vấn, linh mục Kenneth và vài nhân viên ban hồ sơ cười nói: “Frère là người Việt tị nạn đầu tiên và có thể là người duy nhất ‘đá’ Mỹ!” Tuy nhiên có một trường hợp khá hy hữu: Một thuyền nhân nộp đơn xin định cư ở Mỹ. Trong pḥng phỏng vấn, INS cho biết “gia đ́nh anh không hội đủ điều kiện để được hưởng qui chế tị nạn tại Mỹ”. Anh tức giận đứng dậy nói lớn: “Đất nước chúng tôi, dân tộc chúng tôi chịu đau khổ quá nhiều rồi, cũng chỉ v́ mấy ông Mỹ đem quân vào đất nước chúng tôi, viện cớ là để bảo vệ tự do dân chủ. Chẳng những không bảo vệ được, mà c̣n rút quân bỏ mặc chúng tôi. Đừng tưởng tôi phải đi Mỹ mới được! Tôi không cần mấy ông nữa đâu!” Nhân viên INS ngỡ ngàng trong giây lát, rồi cười bảo anh ta ngồi xuống. Lật hồ sơ tị nạn, coi kỹ từng trang, phê ǵ ǵ đó vào trang cuối. Nhân viên INS mỉm cười nh́n anh ta và kư giấy chấp thuận cho gia đ́nh anh định cư ở Mỹ.

***

Một hôm, ông bà đại sứ Pháp, Mr. Olivier, và con gái đến thăm trại Palawan. Ngoài ban đại diện và các trưởng ban ngành, tôi khuyến khích các thầy cô trong ban giáo dục đứng làm “hàng rào danh dự” tiếp đón gia đ́nh ông đại sứ Pháp trước cổng vào trại. Ông đại sứ, kế đến bà đại sứ và tiếp theo là con gái ông bà đại sứ, bắt tay từng người. “Bonjour!”, “Merci, je vais bien”, v.v... là những câu chào xă giao thông thường. Ngoài ra hai ông bà và cô con gái nói ǵ th́ cứ nói, ḿnh chỉ gật đầu, mỉm cười là tốt rồi! Khi bà đại sứ bắt tay tôi, tôi nghe bà nói, “Vous connaissez bien la lecon!” (Anh thuột bài giỏi quá!) Tôi đáp nhanh, “Pardon, Madame! Nous parlions Francais même avant 75, mais il y en a qui ne veulent plus parler cette langue...” (Xin lỗi bà đại sứ! Chúng tôi nói tiếng Pháp ngay trước năm 75, nhưng có nhiều người không muốn tiếng ấy nữa...) Bà đại sứ thoáng giật ḿnh ngạc nhiên. Bà gật đầu ra hiệu mời tôi cùng đi tṛ chuyện với bà.

Vừa đi tṛ chuyện, tôi vừa liên nghĩ đến việc mời ông bà đại sứ ghé thăm văn pḥng CEO, với ư định “móc túi” để cập nhật hóa pḥng học ngoại ngữ, như video, tivi, hệ thống học ngoại ngữ hiện đại. Bà tán thành đề nghị của tôi. Khi ông đại sứ vào văn pḥng CEO, tôi tŕnh bày cho biết những nhu cầu dạy/học ngoại ngữ mà trại Palawan đang cần. Ông tỏ vẻ thích thú và hứa sẽ cung cấp đầy đủ. Ông c̣n giao cho tôi business card của ṭa đại sứ tại Manila để liên lạc.

Tôi gặp cô Sophie, một thiện nguyện đến từ Pháp, và nhờ cô viết thỉnh nguyện thư, kê khai tất cả những nhu cầu cần thiết cho pḥng học ngoại ngữ. Tôi cũng đề nghị xin cô trực tiếp liên lạc với ṭa đại sứ Pháp để vận động dễ dàng và hiệu nghiệm hơn. Tôi không quên nói chuyện với cô bác sĩ trẻ tuổi, Christine, cũng thiện nguyện từ Pháp, và yêu cầu cô Christine lên tiếng giúp. Cuối cùng, tôi chạy đến Soeur Francoise(12), cũng là thiện nguyện từ Pháp đang dạy các em nhỏ tại Vườn Trẻ, và tin chắc rằng Soeur sẽ có tiếng nói mạnh và đáng tin nhất đối với chương tŕnh “giao lưu văn hóa” của Pháp. Tháng ngày trôi qua, biệt tăm vẫn hoàn biệt tích!

***

Lễ Giáng Sinh đầu tiên trên vùng đất tự do, 25 tháng 12 năm 1983. Tôi đề nghị anh chị em trong CEO tổ chức Christmas Party, mời các thiện nguyện ngoại quốc và Ủy Viên Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đặc trách Tị Nạn, ông Bob, đến chung vui. Tôi “nói nhỏ” với anh chị em: “Trong bữa tiệc, ngoài những món ăn thông dụng như chả gị, cơm chiên, ḿnh làm một món ‘surprise’ thật ngon cho mấy ông/bà tây phương... tập thưởng thức”. Ai nấy vui vẻ đồng ư.

Khi quư khách tây phương thưởng thức món “surprise”, ai nấy hít hà khen ngon. Anh chị em chúng tôi nh́n nhau cười thích thú. Lẽ tất nhiên chúng tôi cũng “buông đũa bốc tay lẹ hơn!” Ăn xong, ông Bob hỏi: “Món thịt này là thịt ǵ? Ăn cũng là lạ, thơm ngon đấy chứ!” Một anh trong CEO buột miệng nói: “Dog meat!” Tôi thấy phản ứng của mấy vị tây phương trông cũng tức cười, nhưng không có vẻ ghê sợ. Vài người c̣n cười nói: “Next time, forget me not!” Ai nấy cười vui vẻ.

Tôi tưởng rằng “họ nói chơi cho qua chuyện, hoặc theo cách nói tây phương: good! very good! nhưng thật sự không phải vậy!” Tuy nhiên không phải như điều tôi suy tưởng, hoặc “suy bụng ta ra bụng người” như người Á Đông ta thường làm. Số là để mừng Giao Thừa Tết Nguyên Đán 1984, năm Tí, anh chị em trong CEO đồng t́nh “năm con nào ăn thịt con đó” và mời các vị thiện nguyện. Ông Bob hỏi: “Có đánh... ‘cờ tây’ không?” Tôi đáp: “Nay nay là năm con Chuột, ‘You’ dám chơi chuột không?” Ông Bob cười. Tôi báo cho những người bạn Tây Phương biết là có món “surprise” nhưng không phải chuột.

Chiều tối hôm đó, đông đủ mọi người đến ăn tiệc Giao Thừa, ngoại trừ bà Eleanor. Nguyên nhân v́ sự tranh chấp thế nào đógiữa bà Eleanor và viên tướng chỉ huy trưởng West Commando, tướng Fernandez, mà bà Eleanor bị cấm không cho ra vào trại Palawan hơn 3 tuần nay. Tuy nhiên, bà Eleanor đứng ngoài hàng rào, và báo cho tôi biết là bà muốn mừng Giao Thừa với người Việt. Tôi cho người đem phần ăn cho bà Eleanor. Bà đứng ăn tại chỗ, ngay ngoài hàng rào, và xin chụp một tấm ảnh. Bà nói: “Tôi sẽ loan truyền tấm ảnh này, nói với thế giới tự do rằng ‘đây là cách thức hành xử tự do dân chủ tại trại tị nạn cộng sản’.” Tôi lưỡng lự, nhưng cuối cùng quyết định khuyên bà Eleanor bỏ ư định này, v́ “tuy hấp dẫn và đấu tranh cho quyền tự do dân chủ, nhưng có lẽ không thích hợp!”

***

Vài tuần sau, ông Bob hết nhiệm kỳ. Ông Bob bàn giao cho Ủy Viên UNHCR mới, ông Janvier, người Thụy Sĩ biết nói tiếng Pháp rất sành sơi. Coi như để “đáp lễ” về 2 chầu “surprise” quá độc đáo, ông Bob mời anh chị em CEO dự “drinking party”, nghĩa là xuất phát từ cổng trại Palawan, đi bộ đến Puerta Princesa City, ghévào mỗi kiosk trên đường, làm một lon San Miguel, rồi tiếp tục cho đến đêm khuya. Kể ra cũng độc đáo và vui nhộn, tuy bước đi của mỗi người có vẽ “không b́nh thường” lắm!

Ông Janvier có vẽ ôn ḥa với West Commando hơn, nên sự tồn tại của CEO bị đặt lại vấn đề. Tướng Fernandez triệu tập một buổi họp tại trung tâm tị nạn, “không có người Việt tham dự” để bàn về CEO. Soeur Francoise cảm thấy không ổn v́ biết tôi chịu trách nhiệm CEO mà không được mời họp bàn về vấn đề của CEO. Soeur Francoise gặp tôi, thẳng thắn vào đề: “Frère cứ đến pḥng họp lúc 2 giờ chiều. Có Soeur và vài thiện nguyện ngoại quốc ở đó. Frère cứ yên tâm!” Soeur c̣n thêm: “Frère biết không? Anh Andrew mới tới mà cũng hết ḷng ủng hộ CEO!” Tôi bước vào pḥng họp đúng 2 giờ chiều. Vị tướng lănh Fernandez đă ngồi ghế chủ tọa, bao quanh nhiều người Phi và hầu hết các thiện nguyện ngoại quốc. Tôi chào chung: “Good afternoon!” Vị tướng thoáng ngạc nhiên ngước mắt nh́n tôi, rồi nói: “Who is that guy? No Vietnasmese here! Get out!” Tôi thấy ánh mắt ngỡ ngàng của Soeur Francoise, nhiều gương mặt phản ảnh sự khó chịu của các thiện nguyện ngoại quốc. Trong thoáng chốc, tâm trí tôi xung động, định lên tiếng hỏi “Why?” nhưng trầm tỉnh lại, tôi cúi đầu đi ra, bực dọc và tủi thân. Vài anh bạn trong ban điều hành an ủi, thông cảm và chia sẻ sự tủi nhục của kiếp “v́ mất nước mà phải tị nạn”.

Khoảng 4 giờ chiều hôm đó, Soeur Francoise đến CEO gặp tôi. Soeur cũng buồn không ít, và nói rằng “Soeur cũng như các thiện nguyện khác không thể ngờ trước thái độ ‘thiếu tế nhị’ như vậy từ một cấp lănh đạo”. Soeur c̣n cho biết số phận của CEO chắc là khó thọ, mặc dù chưa có quyết định chắc chắn. Ông Janvier đă đề nghị một buổi họp gồm những người có trách nhiệm việc giáo dục trong trại, kể cả người Việt, trước khi có quyết định dứt khoát. Tướng Fernandez đă đồng ư, và sẽ triệu tập một buổi họp nay mai.

Tôi định dấy lên phong trào “trưng cầu dân ư”, dùng phương tiện truyền thông của ban Thông Tin của trại, nhưng vài thiện nguyện khuyên “khoan hành động rùm ben, v́ dù sao, chính phủ Phi cho trại tị nạn Palawan nhiều quyền hành tự trị hơn tất cả mọi trại tị nạn khác trong Đông Nam Á, là điều quá quư hóa”. Tôi bàn thảo với ban điều hành, với các trưởng ban và nhất là với anh chị em trong CEO, về chương tŕnh hoặc dự án cho việc giáo dục của trại, nếu - trường hợp tồi tệ nhất - CEO phải giải tán và giao quyền lại cho 2 cơ quan CADP và PPCS. Thành thật mà nói, ai ai cũng chỉ mong có ngày được kêu tên đi dịnh cư. Việc điều hành và công tác xă hội trong trại “chỉ là tạm thời và tùy cơ ứng biến”. Mọi người đồng t́nh “để Frère tùy cơ ứng, tụi em biết Frère sẽ làm hết khả năng, và dù cho bất kỳ chuyện ǵ xảy ra, cũng chỉ là mưu cầu lợi ích thực dụng cho đồng bào”. “Mưu cầu lợi ích thực dụng cho đồng bào”, tôi suy nghĩ nhiều về điểm này.

Sáng thứ hai tuần sau, Ông Janvier báo cho tôi biết “2 giờ chiều nay, tướng Fernandez triệu tập buổi họp bàn về vấn đề giáo dục tại trại tị nạn Palawan tại văn pḥng của viên tướng bên West Commando”. Tôi định hỏi ư kiến của ông Janvier về việc này, nhưng lại nghĩ “cũng thế thôi!” nên chỉ gật đầu nói “Merci pour l’invitation!” (Cám ơn đă có lời mời). Bước vào pḥng họp, trái hẳn với điều tôi tự chuẩn bị để “chấp nhận mọi thái độ của người Phi”, tướng Fernandez vồn vă chào hỏi tôi, và điều làm tôi giật nẩy người là tướng Fernandez chào tôi “Brother Valery!” Tôi cảm thấy bầu khí buổi họp có phần dễ thở hơn. Ba cơ quan CADP và PPCS và “Vườn Trẻ” luân phiên báo cáo những thành tích tốt đẹp thu lượm được trong 6 tháng qua. Một thiện nguyện người Anh, anh Andrew, lên tiếng mạnh dạn cho biết tuy anh mới tới trại, nhưng anh thấy nhiều người Việt đến theo học các lớp Anh ngữ và Pháp ngữ do CEO điều hành. Anh cho biết thêm “một số khác th́ loanh quanh theo cô Anne(14), thiện nguyện người Úc, để học ‘nghe’ tiếng Mỹ theo giọng Úc, có lẽ đó là những người muốn được đi dịnh cư tại Úc”. Ư anh Andrew muốn giải bày là “học sinh ngữ của quốc gia nào người tị nạn mong muốn đến định cư, th́ người thổ dân của quốc gia đó đàm thoại, chuyện tṛ, v.v... là thích hợp nhất”. Tôi chụp lấy cơ hội thuận để tŕnh bày chương tŕnh của CEO, và quả quyết rằng quả thật đă đem nhiều lợi ích cho người Việt tị nạn tại Palawan.

Tôi không quên liên nghĩ đến “mưu cầu lợi ích thực dụng cho đồng bào”, nên tôi lên tiếng: “Thưa tướng Fernandez, thưa quí vị thầy cô và thiện nguyện đă hết ḷng giúp đỡ cho người Việt tị nạn tại Palawan. Tôi có ư kiến xin đề nghị. Chúng ta tiếp tục việc dạy ngoại ngữ, Anh ngữ hay Pháp ngữ như hiện nay, v́ quả thật đă đem lại lợi ích cho nhiều người. Thêm vào đó, nếu có thể, tôi xin nghĩ đến việc mở các lớp dạy nghề như lớp hàn x́, lớp mộc, lớp máy ôtô, lớp điện tử, v.v... cho những người không có dịp đi học từ lúc trẻ, hoặc có thể v́ đă lớn tuổi nên việc học ngoại ngữ có phần khó khăn. Học nghề không đ̣i hỏi nhiều lắm về ngoại ngữ, có thể giúp họ có một ít vốn liếng nghề nghiệp trong tương lai nơi những quốc gia mà họ sẽ được định cư chăng?”

Tướng Fernandez lẫn cao ủy UNHCR Janvier gật đầu hưởng ứng đề nghị đó. Sau một thời gian trao đổi bàn tính, tướng Fernandez quyết định:
1. ông Janvier xúc tiến việc xin quỹ bảo trợ chương tŕnh học nghề;
2. Pḥng giáo dục tại Puerta Princesa City nghiên cứu việc mở lớp dạy nghề bao gồm: giáo viên kỹ thuật dạy nghề, pḥng lớp và dụng cụ dạy nghề thích hợp;
3. PPCS bảo đảm việc thi tuyển học viên ghi danh học nghề, bao gồm tŕnh độ Anh ngữ tối thiểu, khả năng tối thiểu trong nghề muốn học;
4. CEO cũng như 2 cơ quan CADP và PPCS vận động phổ biến và khuyến khích học viên ghi danh học Anh ngữ chuyên môn với ngành nghề muốn theo học.
5. Chương tŕnh học nghề khai giảng đầu tháng 5 năm 1984.

***

Chương tŕnh “dạy nghề” tại Puerto Princesa City đang tiến hành tốt đẹp, th́ một chuyện bê bối xuất phát từ ban điều hành trại gây nhiều phẫn uất và tranh đấu rùm beng. Số là trong nhiệm kỳ của thuyền nhân Hoàng Trọng Hảo, chủ tịch ban điều hành, việc thành lập “nội các” và giao toàn quyền trưởng ban những ban ngành “có thể làm ăn được” cho những người thiếu tinh thần phục vụ đồng bào - mà thừa tinh thần “phục vụ bản thân” - như ban lương thực, ban xă hội, ban bưu điện, ban an ninh. Nhất là ban bưu điện.

Kể từ khi ông Hoàng Trọng Hảo được bầu làm chủ tịch ban điều hành trại tị nạn Palawan, rất nhiều thuyền nhân có gia đ́nh ở nước ngoài phàn nàn bị mất thư hoặc thư “bị kiểm duyệt”. Tệ hơn nữa, “nhân nhụy” trong thư biến đâ mất. “Chẳng lẽ người nhà viết thư cho biết gởi 10, 20 đô mà lại ‘quên’ đặt ‘giấy xanh’ vào bao thư?” Anh Rémy Hiển, lúc bấy giờ làm trưởng ban thông tin, không ngần ngại phổ biến những mẫu thư khiếu nại phàn nàn của các nạn nhân. Ngày nào cũng nghe rỉ rả trên dưới 2, 3 mẫu thư khiếu nại than phiền như vậy th́ coi sao đặng? Thế mà ban điều hành cứ b́nh chân như vại “phớt tỉnh Ăng-lê”.

Thông thường, người Phi đem thư đến trại - vào khoảng 4, 5 giờ chiều, ban bưu điện của trại đếm kiểm soát số lượng thư đem đến, khóa cửa cẩn thận. Sáng hôm sau, ban “bưu điện” đến làm việc, kiểm soát thêm một lần số lượng, lập danh sách người nhận, rồi giao cho ban thông tin loan báo chung cho cả trại. Sau vài ngày nghe “đài phát thanh” của trại rỉ rả lời than phiền về vụ mất “nhân nhụy” trong bao thư, trưởng ban an ninh phối hợp với vài nhân viên âm thầm theo dơi pḥng bưu điện. Vài ngày đầu, mọi sự xem ra êm xuôi tốt đẹp, không một triệu chứng nào khả nghi. Tuy nhiên, vẫn c̣n người than phiền bực bội v́ “rơ ràng trong thư viết: ‘Anh gởi kèm 20 đô em mua vật dụng cần thiết’. Bao thư nguyên vẹn, không có dấu chứng nào là bị ‘kiểm duyệt’, nhưng 20 đô bay đi đâu?”

Trưởng ban an ninh chia phiên canh gác suốt đêm quanh “pḥng bưu điện”. Quả thật, khoảng 2 giờ sáng, có bóng 2 người lai văng. Một người cầm đèn pin nhỏ, một người tay xách một thùng nhựa có nắp đóng kín nho nhỏ, dáo dác từng bước một đến pḥng bưu điện. Tiếng mở ổ khóa thật nhẹ như quá quen thuộc, tiếng đẩy cửa ra vào cũng thật nhẹ nhàng, rón rén đi vào pḥng rồi êm thắm khép cửa lại. Trưởng ban an ninh cũng rón rén đến gần cửa. Trong pḥng tối om, chỉ thấy ánh đèn pin mờ mờ ảo ảo chiếu qua chiếu lại có lẽ theo tầm mắt đọc địa chỉ trên bao thư. Trưởng ban an ninh giật ḿnh khi thấy trưởng ban bưu điện mở nắp thùng nhựa nhỏ, đặt vào đó một bao thư, đóng nắp thùng lại, trong khi người thứ hai tiếp tục ḍ xét bao thư khác. Chắc chắn có điều mờ ám. Trưởng ban an ninh rón rén nhẹ nhàng đi kêu thêm 2 nhân viên đến làm chứng. Khi 3 người đến sát cửa ghé mắt nh́n vào trong pḥng, th́ đúng lúc trưởng ban bưu điện lấy một bao thư trong thùng nhựa ra, và điều kỳ lạ là nắp bao thư được mở ra tự nhiên. Cả 3 người tông cửa nhảy vào, bật đèn sáng lên. Th́ ra trưởng ban bưu điện và một nhân viên bị bắt quả tang đang lột bao thư để “kiểm duyệt” với tang vật là thùng nhựa đựng nước đá. Để khỏi gây ẩu đả trả thù, và để bắt người “đỡ đầu bao che”, trưởng ban an ninh và 2 nhân viên đồng ư “làm như không có chuyện ǵ xảy ra” mà chỉ âm thầm điều tra.

Sáng hôm sau, trưởng ban điều hành, ông Hoàng Trọng Hảo, thông báo thay đổi trưởng ban bưu điện và nhân viên liên hệ. Từ đó không c̣n nghe tiếng than phiền nữa. Tuy nhiên, ban an ninh vẫn tiếp tục âm thầm điều tra. Hơn một tuần sau, ban an ninh mời các trưởng ban và ban điều hành đến họp “bất thường”. Trưởng ban an ninh tŕnh bày chi tiết những sự kiện xảy ra hơn 2 tuần qua tại trại tị nạn Palawan, cách riêng việc “kiểm duyệt thư từ và tẩu tán tài sản của đồng bào một cách bất hợp pháp của ban bưu điện”. Sau một hồi tranh căi sôi nổi về quyền hạn và nhiệm vụ của ban điều hành nói chung, của trưởng ban điều hành nói riêng, vài trưởng ban kiến nghị “truất phế trưởng ban điều hành đương nhiệm và bầu lại ban điều hành khác”.

Phản ứng của trưởng ban điều hành, ông Hoàng Trọng Hảo, gây bất măn và bất tín nhiệm của mọi người. Ông Hoàng Trọng Hảo viện quyền “bất khả xâm phạm” của trưởng ban điều hành để biện minh và bao che việc làm sai trái của cựu trưởng ban bưu điện. Ban an ninh phối hợp với ban truyền thông phổ biến rộng răi đề nghị “truất phế trưởng ban và ban điều hành đương nhiệm” và nhiều lá thư thỉnh nguyện của đồng bào hưởng ứng đề nghị này được ban truyền thông cho đọc nhiều lần trên hệ thống phát thanh của trại. Thật chẳng khác ǵ một “cuộc đảo chánh!” Có khác chăng với những cuộc đảo chánh trước 75 tại Việt Nam (như năm 1960, 1963, và các năm tiếp) là cuộc đảo chánh lần này tại trại tị nạn Palawan không dựa vào vũ lực súng đạn, mà hoàn toàn dựa vào đạo đức của “nội các” và sự tín nhiệm của “người dân”. Ông Janvier nghe biết chuyện, gặp tôi nói: “Vous commencez à apprendre la démocratie!” (Các anh bắt đầu học thực hành dân chủ). Tôi chỉ cười.

Ban an ninh triệu tập một buổi họp “nội các mở rộng”, bao gồm các trưởng ban và một số “thân hào nhân sĩ”. Có thể do áp lực quá mạnh về phía “nhân dân”, mà cũng có thể v́ bằng chứng và khai tội của cựu trưởng ban bưu điện, ông trưởng ban điều hành, Hoàng Trọng, xin từ chức và tự động giải tán “nội các”. Thay v́ xử án ông chủ tịch ban điều hành và cựu trưởng ban bưu điện và nhân viên liên hệ vào “chuồng khỉ 3 ngày đêm” th́ hội đồng thỏa thuận phạt nhẹ bằng cách các can phạm và ṭng phạm làm công tác vệ sinh trong sân trại 3 buổi sáng.

Một trong nhiều trường hợp “can phạm” bị nhốt vào “chuồng khỉ” như sau: Thanh và Tân là 2 bạn tương đối khá thân, quen nhau trong trại tị nạn. Một ngày như... mọi ngày, khoảng 9 giờ sáng. Không hẹn mà ḥ, cả Thanh và Tân xách mỗi người 2 thùng chạy thật nhanh đến ṿi nước, với hy vọng là người đầu tiên hứng nước - khỏi mất công xếp hàng đợi chờ. Có lẽ cả hai đều chỉ nhắm thẳng ṿi nước nên không để ư đến nhau. Đến gần ṿi nước, v́ ai cũng muốn là người đầu tiên, nên đă chạm nhau té ngă khá nặng. “Th́ ra là mày!” cả hai cùng hậm hực chửi rủa nhau một lượt.
Cơn đau té ngă làm cả hai quên bẵng đi rằng ḿnh từng là bạn, dù không phải bạn rất thân, nhưng cũng là bạn. Thế rồi màn ẩu đả diễn ra. Thuận tay, Thanh vơ một khúc gỗ bên cạnh bủa xuống đầu Tân = máy chảy thành ṿi... Ban An Ninh trại tị nạn đem Tân vào pḥng cấp cứu, nhốt Thanh vào “chuồng khỉ” đợi giờ thẩm tra.
10 giờ sáng, tiếng thánh thót trên loa loan báo tin mừng : “Đồng bào có tên sau đây chuẩn bị hành lư, ra phi trường đi Manila, chuyến bay lúc 11 giờ 30 sáng...” Ai đă từng ở trong trại tị nạn Palawan hoặc bắt kỳ trại tị nạn nào ở Đông Nam Á, cũng đă thấm hiểu bầu không khí nôn nao mong chờ được xướng ngôn viên đọc tên ḿnh. Trong danh sách lần này, có tên... Thanh Nguyen Vu = đích thị là hắn chứ không ai khác nữa!
Thanh nhảy đứng lên reo ḥ vui sướng, dù đang bị nhốt trong “chuồng khỉ”. Tiếng reo ḥ không lâu, chợt biến mất: Thanh thoáng nhận ra h́nh ảnh của Tân đang ôm đầu máu. Hối hận.
Nhưng ḱa! Tân, phải chính Tân mang đầu băng bó cùng đi với Ban An Ninh đến “chuồng khỉ”, miệng cười toe toét lên tiếng : “Thanh! mày được đi Manila rồi ḱa!”
Thật hay mơ? - Thanh dụi mắt. Tiếng lét két mở cửa “chuồng khỉ” cho Thanh biết là sự thật. Tân vẫn tươi cười, càng làm Thanh bồn chồn xúc động. Có thể vậy sao? Nhưng niềm vui được đi Manila chuẩn bị đi Mỹ trấn áp mọi sự. Tân ôm chồm lấy Thanh, miệng cười nói : “Mày hên thiệt !”
Tiếng rỉ rả như hờn hờn tủi tủi, như luyến tiếc nhớ nhung của bài hát “Ngh́n Trùng xa cách... người đă đi rồi!...” bùi ngùi rên rỉ trên ống loa do Ban Thông Tin trại Palawan phát ra. Tại phi trường Princesa City, trước khi chia tay lên máy bay đi Manila, Thanh và Tân lại rưng rưng nước mắt ôm lấy nhau. “Chúc mày lên đường b́nh an!” - “Chúc mày may mắn sớm lên đường đi dịnh cư...” Những người thiện nguyện Mỹ, Pháp, Úc, Anh, v.v... ngơ ngác nh́n nhau - họ không tưởng tượng nỗi mới cách đây hơn 1 tiếng đồng hồ, 2 người này “ẩu đả nhau đẫm máu”, bây giờ lại “ôm nhau đẫm nước mắt... yêu thương!”

***

Đầu tháng 5 năm 1984, chương tŕnh “học nghề” sắp h́nh thành, nghĩa là tổng số thuyền nhân hội đủ điều kiện Anh ngữ và hiểu biết tối thiểu về ngành nghề muốn học, lên đến 20 người, và pḥng lớp cũng đă sẵn sàng ngay tại trung tâm thành phố Puerto Princesa City, th́ tôi được ông Janvier cho biết: “Demain, vous partirez pour Manille. Vos dossiers ont été transférés à l’Embassade de France...” (Ngày mai, anh sẽ đi Manila. Hồ sơ của anh đă được chuyển về ṭa đại sứ Pháp...) Tôi vội mời anh Đạt, một nhân viên thật đắc lực và có khả năng đă làm việc với tôi tại CEO, và xin anh Rémy Hiển, vừa được bầu làm trưởng ban điều hành thay thế cho ông Hoàng Trọng Hảo, bổ nhiệm anh Đạt làm trưởng ban giáo dục CEO. Tôi khuyến khích anh Đạt tiếp tục đẩy mạnh chương tŕnh “mưu cầu lợi ích thực dụng cho đồng bào ḿnh” và kêu gọi đồng bào ghi danh học nghề.