Một buổi sáng khoảng cuối tháng 3/1978, tôi nghe giọng nói của Huynh giám
tỉnh trả lời thẩm cung ở pḥng bên cạnh. Tôi đoán là cuộc thẩm cung cuối cùng
trước khi kết thúc hồ sơ vụ án Lasan Mossard. Hai ngày nữa trôi qua, tuyệt nhiên
không c̣n nghe biết ǵ nữa về việc thẩm cung “kết thúc hồ sơ”. Tôi bắt đầu hy
vọng được thả tự do, và c̣n mường tượng rằng các Anh Em khác - ngoại trừ những
Huynh Đệ Đào, Hà và Tiến mà tôi thấy hoặc nghe biết được đang cùng trại giam với
tôi - đă được tự do. Mừng cho Anh Em đó, “rồi cũng đến phiên ḿnh!” tôi nghĩ như
vậy, tâm thần phấn chấn hẳn lên.
Trưa hôm đó, tôi được kêu lên làm việc. Tuy hai tay mang c̣ng và thân h́nh đầy
ghẻ lở, nhưng tinh thần rất tỉnh táo. “Giờ giải thoát đă đến!” tôi vui mừng hy
vọng. Trước khi ra khỏi pḥng, tôi liếc mắt nh́n hai em Cường và Hán, môi mở nụ
cười chân t́nh, như tạm biệt, như cảm kích tŕu mến và cầu mong hai em sớm được
tự do; tôi cũng liếc mắt nh́n hai thầy Lễ và Tuấn, mở nụ cười “gặp lại nhau ở
ngoài nghe!”; tôi nh́n quanh pḥng với ánh mắt muốn diễn tả “cám ơn mỗi người đă
đối xử tôi như một người anh em cùng cảnh ngộ chứa chan t́nh người chân thật”,
đặc biệt anh trưởng pḥng đă “có cảm t́nh nồng hậu với tôi”, và anh bạn hằng đêm
“tháo c̣ng giải thoát và đem lại cho tôi giấc ngủ thoải mái”.
***
Ngồi trước bàn làm việc, ông chấp pháp nh́n tôi như mỉm cười, tỏ vẻ khoan
dung đến độ làm tôi rùng ḿnh tự nghĩ “lại đóng kịch hay thật sự ḿnh sắp được
phóng thích?” Ông bảo tôi ngồi đối diện, trên bàn có sẵn một xấp giấy và viết.
Tôi chợt nhớ lại hơn một tháng trước, tôi đă bất cần đọc biên bản đánh máy sẵn,
nhắm mắt kư tên và hậu quả là “treo cửa sổ 3 ngày 3 đêm”; nay tôi tự nhủ “phải
cẩn thận đọc cho kỹ trước khi kư tên”. Ông chấp pháp hỏi tôi, giọng nói thật ôn
tồn:
- Anh c̣n điều ǵ để khai báo thêm không?
- Tôi đă...
Ngay lúc đó, không biết vô t́nh hay hữu ư, người ta đưa Huynh Hồng đi ngang qua
bàn làm việc, trên đường ra khỏi trại giam. Huynh Hồng trông ốm hẳn, đưa mắt
nh́n tôi, gương mặt thật dửng dưng như không hề quen biết. Tôi thật bối rối,
ḷng suy tưởng mông lung. “Huynh Hồng chắc được thả tự do? Chắc họ hù ḿnh thêm
vài phút rồi ḿnh cũng được thả tự do như Huynh Hồng?” Ông chấp pháp lên tiếng
cắt đứt gịng suy nghĩ của tôi: “Nếu muốn được thoải mái như anh Hồng th́ phải
thành khẩn khai báo tất cả.” Tôi càng hy vọng “sắp được tự do” hơn.
[Măi đến cuối năm 1998, tôi mới gặp lại Huynh Hồng - đang là giám đốc Kinh
Viện Lasan, Mai Thôn. Hai anh em đèo Honda về thăm “quê cũ” tại Thủ Đức. Tại mỗi
địa điểm “lịch sử” như Phước Tường Phát, Cầu Ngang, Đồn Công An số 1, trại giam
Thủ Đức, và nhất là trường Lasan Mossard và khu vực Đệ Tử Viện, chúng tôi nhắc
lại cho nhau biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn và đau thương... Huynh Hồng cho tôi
biết “bà mập ú” đó chính là đại tá t́nh báo thành phố Saigon, đă hỏi cung Huynh
Hồng nhiều lần, và đă đề nghị Huynh “hợp tác làm việc với chính quyền”. Huynh
Hồng kể: “Trong phiên toà xử án, người ta ghép ḿnh chung với Liên Tôn, và kết
án ḿnh 13 năm tù. Cuối phiên toà, ḿnh thẳng thắng nói: ‘tôi có một người mẹ bị
bệnh nặng, tôi đi t́m thuốc chữa cho mẹ; nhưng tôi đă lầm thuốc. Hậu quả tôi
chịu trách nhiệm, không liên quan ǵ đến bạn bè thân hữu của tôi’. Không ngờ mấy
‘vous’ cũng bị vạ lây suốt 3, 5 năm trong tù!” Được thả tự do trước thời hạn,
Huynh Hồng có nhiệm vụ phải lên “làm việc” tại Sở Công An thành phố mỗi tuần.
Huynh Hồng dạy vơ Karaté, Judo... cho cán bộ địa phương nên rất được mến trọng
và nhờ đó mà việc “tạm trú bất hợp pháp của các Huynh Kinh Sinh được ... thông
cảm dễ dàng”. Huynh tham gia vào phái đoàn đi tŕnh diễn vơ thuật tại Úc, và
trong một chuyến “thiên thời địa lợi nhân hoà”, Huynh Hồng may mắn “trốn thoát”,
các Huynh Đệ đồng môn người Úc bảo lănh và được định cư tại Úc. Không hiểu v́ lư
do nào mà Huynh Hồng xin chuyển hướng làm linh mục, sau hơn 40 năm (1963-2005)
đồng lao cộng khổ với Huynh Đệ Lasan. Dù sao th́ “vườn nho của Chúa có rất nhiều
việc làm, việc nào cũng là việc của Chúa!”]
Tôi vẫn im lặng như thể chưa hoàn hồn; ông nh́n hai tay tôi mang c̣ng, lốm đốm
ghẻ cả hai cánh tay; ông hỏi: “Muốn trả lời hay tự viết lời khai?” Tôi nh́n đôi
tay, mỉm cười, thoáng nghĩ rằng “nếu viết th́ phải tháo c̣ng tôi ra! Dù sao được
vài phút tháo c̣ng ‘hợp lệ hợp pháp’ th́ cũng tốt!” Tôi trả lời: “Viết!” Ông
chấp pháp đưa cho tôi xấp giấy trắng có kẻ hàng, một cây bút nguyên tử, rồi ra
hiệu cho tên công an tháo c̣ng. Ông bảo: “Anh viết họ và tên, ngày tháng năm,
rồi trả lời ba câu hỏi:
1. Cơ cấu tổ chức của ḍng Lasan;
2. Tên, họ và địa chỉ của những bạn bè thân thiết anh đă gặp và nói chuyện trong
ṿng 6 tháng qua;
3. Anh có thích chế độ cộng sản không? Tại sao?”
Nói xong, ông nh́n vào giấy kiểm soát lại những câu hỏi, gật gật đầu rồi nói:
“Anh ngồi đó, viết câu trả lời, khoảng nửa giờ sau tôi trở lại.” Nói xong ông
đứng dây bỏ đi, tên công an cũng bỏ đi.
Tôi ngồi một ḿnh nh́n cái c̣ng số 8 bên cạnh mà ḷng xôn xao phân vân với câu
hỏi số 3: “Anh có thích chế độ cộng sản không? Tại sao?” Quả là một bài tính đố
nan giải. Trả lời:
- Có. [th́ đi ngược với lương tri con người vốn yêu chuộng sự thật]
- Không. [th́ cái c̣ng số 8 bên cạnh đang hăm he siết chặt hết ngàm này đến ngàm
khác, đến ngàm cuối cùng]
Thật sự tôi không/chưa bị đánh đập tra tấn, chỉ mới bị “treo cửa sổ 3 ngày 3 đêm”,
và 2 lần như vậy rồi. Ngồi suy nghĩ một hồi, tôi đưa mắt nh́n quanh pḥng, thấy
lại bảng ghi rơ “Có tội th́ đánh cho chừa - Không tội th́ đánh cho có” treo trên
tường ngoài hàng lang vào trong các pḥng giam. Tôi nghĩ: “Đằng nào cũng bị đánh!
Lại nữa họ cho là ḿnh chống đối phản động trong tư tưởng th́ ḿnh nói “có” hay
“không” cũng vậy!” Tôi viết trả lời câu hỏi thứ 3:
KHÔNG! (không thích KHÔNG có nghĩa là chống đối, cũng KHÔNG có nghĩa là phản
động) V́ những lư do sau đây:
a. về tự do đi lại. Tự do đi lại là phương tiện hữu hiệu và tất yếu của sự phát
triển kinh tế, kỹ thuật và giao lưu văn hoá. Chế độ “hộ khẩu” đă giảm bớt hoặc
ngăn chận tự do đi lại, do đó đ́nh trệ - nếu không muốn nói ngăn cản sự phát
triển, nhất là về mặt kinh tế, do đó nẩy sinh vụ tham nhũng, đút lót trên các
tuyến đường giao thông hoặc trại “kiểm soát kinh tế”. Một khi kinh tế bị đ́nh
trệ hoặc thụt lùi, người dân phải bằng mọi cách kiếm sống như “buôn lậu nhu yếu
phẩm: gạo, thực phẩm, v.v...”, hoặc t́m cách vượt biển dù biết dữ nhiều lành ít.
Đài BBC thường loan tin vớt thuyền nhân Việt Nam “chạy trốn” trên biển Đông,
không thiếu trường hợp ghe bị đắm ch́m v́ băo táp, v́ cướp biển, v.v... Nguy
hiểm như vậy mà người dân vẫn t́m cách vượt biển. Tại sao?
b. Báo cáo của chính phủ rỉ rả trên đài truyền thanh truyền h́nh luôn luôn
là”vượt mức chỉ tiêu”. Có thật sự như vậy không? Tại sao không nói sự thật? Dân
Việt Nam thừa biết là sau bất kỳ một cuộc chiến nào, kinh tế luôn luôn gặp khó
khăn, đời sống từ từ sẽ được ổn định NẾU nhà lănh đạo quốc gia biết huy động
tiềm năng nhân lực và vật lực cùng tài nguyên của dân tộc để cùng nhau xây dựng
lại đất nước - thay v́ làm láo báo cáo hay.
c. về mặt giáo dục tuổi trẻ. Tŕnh độ học vấn của các em học sinh trung cấp thật
sự rất xuống cấp. Tôi đă chấm kỳ thi tuyển vào lớp 10 tại trung tâm khảo thí
huyện Thủ Đức tháng 6 năm 1976, và đă biết điều này. Thật đáng buồn.
Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Tuy rất lo sợ v́ mường tượng những cực h́nh có thể
phải chịu, nhưng “đằng nào cũng bị đánh; đau đớn thân xác th́ chắc khó tránh,
nhưng nói cho đă tức cũng là một lối thoát!” Tôi quyết không bôi xoá hay bỏ bớt
điều ǵ, ngồi đợi điều không may sẽ tới. Măi hơn một giờ sau, ông chấp pháp mới
đến. Tôi đưa xấp giấy, ông đọc. Đến câu thứ 3, tôi theo dơi phản ứng của ông.
Tôi hơi chột dạ khi thấy ông sắc mặt biến... màu, hàm răng như nghiến lại giận
dữ. Ông nh́n tôi nói:
- Đă hơn ba tháng rồi mà c̣n viết vậy à?
- Th́ anh bảo tôi thành khẩn nói sự thật...
- Tôi xé hết bây giờ!
- Anh bảo tôi viết, tôi đă viết; xé hay không là quyền của anh.
Ông giận dữ ra lệnh cho tên công an: “C̣ng nó vào cửa sổ 3 ngày 3 đêm!” Tôi đă
chuẩn bị tâm lư đón nhận mọi cực h́nh, nên rất b́nh tĩnh. Tưởng ǵ chớ “treo cửa
sổ th́ ḿnh cũng đă được ‘huấn luyện’ trước!” tôi tự nhủ để tự trấn an.
***
Tôi từ từ đi vào pḥng dưới ánh mắt đầy kinh ngạc của các bạn tù.
Tôi thấm hiểu được niềm vui mừng hy vọng phóng thích 2 giờ trước đây tan vỡ hoàn
toàn trong ḷng những anh em đồng hội đồng thuyền với tôi. Tôi b́nh tĩnh đến cửa
sổ, giơ hai tay ra ngoài song sắt, sẵn sàng đón nhận hậu quả của sự “phát tiết
sự thật” chất chứa trong ḷng hơn 3 năm nay. Hai em Cường và Hán lại quấn quưt
hai bên, an ủi tâm t́nh. Em Cường nói: “Tội nghiệp cho anh quá! Tại sao bọn họ
lại đối xử với anh như vậy?” Tôi nh́n em mỉm cười nói: “Anh không sao, ‘quen’
rồi! Anh đă nói ‘sự thật’ với họ, nhưng tiếc thay họ không chấp nhận ‘sự thật’!”
Em Hán buột miệng hỏi: “’Sự thật’ là ǵ?” Tôi trố mắt nh́n em, ḷng trí bỗng nhớ
đến câu hỏi của Philatô với đức Giêsu “Sự thật là ǵ?” rồi bỏ đi không thèm nghe
câu trả lời. Tôi mỉm cười nh́n em, lắc đầu th́ thào: “Anh cũng không biết nữa!”
Trong cảnh tĩnh mịch tối khuya hôm đó, đôi lúc vài mụt nhọt ghẻ dưới chân trái
cương mủ làm tôi đau nhức, tôi chỉ biết dùng bàn chân trái xát qua xát lại chỗ
đau, mặc cho mủ vung văi thế nào cũng được miễn là qua cơn đau nhức nhất thời;
coi vậy mà hiệu nghiệm! Cảnh vật đáng ra phải âm u dưới bầu trời mờ ảo ánh trăng
sao mới thơ mộng và thật sự thư giản. Cảnh vật hiện tại được chiếu sáng bởi
những bóng điện trông sao mà thê lương buồn sầu. Tôi bỗng hồi tưởng lần đi coi
phim La Nuit est faite pour... [Ban Đêm được làm ra để...] tại Đà Lạt, hơn 10
năm về trước.
Khoảng đầu năm 1970, cộng đoàn Kinh Viện tại số 6 đường Trần Hưng Đạo, Đà Lạt
đưới thời huynh trưởng Francis Trí, được chia thành nhóm nhỏ gọi là Huynh Đoàn (Fraternité)
gồm 4 hay 5 Kinh Sinh. Huynh Đoàn tôi - mang tên là Ách Cơ - gồm có các Huynh
Hồng, Hạnh, Bellarmin Tâm. Mỗi Huynh Đoàn được một số tiền túi là 500 đồng/tháng
để sinh hoạt vui chơi giải trí. Huynh Đoàn Ách Cơ thường tổ chức “boomm!” tại
pḥng Bonheur Vert (Lầu Xanh) vào các dịp lễ bổn mạng hoặc sinh nhật, hoặc hứng
th́ chịu chơi chứ không chơi chịu, và mời các trưởng Huynh Đoàn khác đến chung
vui, thư giăn; lâu lâu cũng mời Huynh trưởng Francis tham dự cho vui cửa vui nhà.
Một buổi chiều tốt trời, Huynh Đoàn Ách Cơ nổi hứng muốn cùng nhau đi xem ciné
tại rạp Hoà B́nh. Cả Huynh Đoàn đến gặp Huynh trưởng Francis Trí, tôi nói:
“Huynh Đoàn Ách Cơ xin phép bề trên cho Anh Em chúng con đi giải trí với nhau,
xem phim La Nuit est faite pour... tại rạp Hoà B́nh.” Huynh trưởng nh́n chúng
tôi, ngẫm nghĩ giây lâu rồi nói: “Nếu các Huynh đă chu toàn xong bổn phận hằng
ngày rồi th́ cứ đi.” Huynh Hồng lên tiếng ngay: “Tôi đă hoàn thành từ hôm qua!”;
Huynh Hạnh tiếp lời : “Tôi cũng vậy!”; Huynh Tâm cười nói: “’Moi’ th́ vừa làm
xong!” Tôi hưởng ứng vui vẻ: “vậy th́ ḿnh đi!” Thế là Huynh Đoàn Ách Cơ vui vẻ
đồng t́nh “lên đường”. Khi Huynh Đoàn vào rạp th́ đang chiếu phim thời sự, nên
pḥng nhá nhem tối. Chúng tôi t́m được một dăy ghế, mới có một người ngồi ghế
ngoài cùng, 4 Anh Em chen vào trong ngồi thoải mái. Huynh Hạnh cười cười nói:
“Nếu ông bề trên thấy tụi ḿnh ngồi như vậy coi ciné, không biết ông nghĩ sao?
Không chừng ông cũng đi ciné như ḿnh, hahahaha.” Vài giây trước khi vào phim
chính, pḥng chiếu phim có vẻ sáng hơn; ai nấy đều ngạc nhiên há hốc mồm nh́n
người ngồi ghế ngoài cùng: th́ ra là Huynh trưởng Francis Trí! Phim chiếu xong,
Huynh Tâm đề nghị “mời Huynh trưởng đi uống café!” Nói cho ngay, Huynh trưởng
cũng rất hoà đồng thân thiện với Huynh Đoàn Ách Cơ, nên trên đường về nhà, chúng
tôi đồng ư vào nhà Thủy Tạ uống nước.
Tôi nói nhỏ với các Huynh Đệ: “Ḿnh kẹt tiền rồi đó nghe!” Các Huynh Đệ nh́n
nhau mỉm cười ranh mănh, như có ư đồ bất chánh nào đó. Huynh Hồng uống nhanh
nhất, đứng dậy xin về trước “có chuyện cần”, Huynh Tâm xin “tháp tùng”; vài phút
sau Huynh Hạnh cũng xin phép về trước; c̣n lại Huynh trưởng và tôi. Thật lúc đó,
tôi dở khóc dở cười, uống nước cam vắt ngọt, mát, nhưng tâm trí nóng bỏng t́m
cách “nói khéo”. Huynh trưởng Francis thừa biết “bọn này chơi khẳm rồi” nhưng
vẫn tỉnh bơ, đợi tôi lên tiếng. Tôi đành nói thật; và nhờ vậy mà có một chầu
giải khát... chùa ngon lành!
Hồi tưởng đến đây tôi tự mỉm cười, và thật sự cảm thấy thư giản, ấm ḷng nhớ lại
chuyện vui xưa, chuyện của tuổi thanh niên mới lớn, đang lớn, tuổi của “nhất quỷ
nh́ ma thứ ba học tṛ (sinh viên)”. Tôi bỗng nghĩ đến hai chữ “số mạng”.
- Huynh Bellarmin Tâm quốc tịch Pháp, giờ này chắc đang hưởng niềm vui sống gia
đ́nh hạnh phúc bên phương trời Tây, tự do hạnh phúc thật sự;
- Huynh Hạnh bỗng dưng sao lại có mặt trong giờ thứ 25, có người chỉ điểm cho
biết có chuyến tàu sắp nhổ neo tại bến Bạch Đằng, và lại có Huynh Grégoire Tân
tiễn đưa đến nơi đến chốn để giờ này vui hưởng thanh b́nh, tự do dân chủ tại một
cường quốc bậc nhất thế giới?
- Huynh Hồng và tôi, tại sao không nghe lời Huynh Phong “dụ khị” ra đi ngay lập
tức khi thời điểm đă tới, để rồi giờ này Huynh Hồng phải chịu cảnh tra tấn dă
man, c̣n tôi th́ bị treo cửa sổ?
- ... [nhiều, rất nhiều biến cố xảy ra cho người này người khác - may cũng như
rủi ?]
- Đặc biệt huynh trưởng Ánh; Huynh trưởng rỉ tai cho người khác “ra đi” lúc
phương tiện thật dễ dàng, thật an toàn và cùng với nhiều Huynh Đệ lo cho nhau,
nâng đỡ nhau, c̣n chính ḿnh th́ bây giờ phải mang cảnh tù tội, và bị giam giữ ở
đâu? Có bị tra tấn đánh đập không? c̣n sống hay là... Tôi không dám nghĩ tiếp.
Tôi bỗng thấy h́nh dáng một người đứng gần song sắt trong pḥng số 7; chăm chú
nh́n kỹ th́ hao hao giống Huynh trưởng Ánh. Có thể như vậy không? Tôi liều tằng
hắng một tiếng khá to. Tiếng tằng hắng vang dội trong đêm tĩnh mịch. Người đó
ngẩng đầu lên nh́n về phía tôi: chắc chắn là Huynh trưởng Ánh rồi! Tôi giơ hai
tay c̣ng ngoài song sắt lắc lắc khua tiếng mắc dây sắt của c̣ng, Huynh Ánh nhận
ra tôi, cũng lắc lắc giơ hai tay mang c̣ng ngoài song sắt. Th́ ra Huynh Ánh cũng
bị treo đứng như tôi, ở trong pḥng số 7 cheo chéo pḥng số 4. Tôi tiếp tục lắc
lắc hai tay, Huynh Ánh cũng giơ hai tay mang c̣ng lắc lắc “đáp lễ”. Tôi mừng vô
hạn. Bốn ánh mắt gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Hai đầu lắc lắc gật gật như muốn
nói nhiều, rất nhiều... Chúng tôi hiểu nhau quá mà! Tôi thở ra ngao ngán.
Không biết Huynh Ánh bị treo cửa sắt mấy lần và bao lâu rồi - hy vọng là lần đầu
tiên. Một tên công an canh pḥng đi qua đi lại trên sân ximăng trước dăy pḥng
số 5 đến số 10. Hắn bỗng đứng lại ngay trước Huynh Ánh, nh́n qua nh́n lại một
hồi, không biết làm ǵ. Hắn tiếp tục đi qua đi lại trên sân ximăng. Hắn vừa đi
ra xa, tôi thấy Huynh Ánh đang “ngồi cḥm hơm” dưới sàn, nhưng hai tay vẫn bị
c̣ng ngoài song sắt. Tôi đă hiểu. Tên công an thấy Huynh Ánh bị “đứng piquet”
sát song sắt, sinh ḷng trắc ẩn cho một ông già ... vô tội (!) đến xem mới biết
ra là bị c̣ng hai tay ngoài song sắt, khá cao, không thể ngồi hoặc qú, nên cũng
c̣ng ngoài song sắt nhưng hạ xuống thấp hơn cho đỡ... khổ. Tôi đoán đó là công
an tên Hóa. V́ tên công an c̣n đi qua đi lại trên sân ximăng, nên Huynh Ánh
không dám làm hiệu cho tôi. Quả đúng như tôi suy tưởng, khi tên công an đi khỏi,
Huynh Ánh liền tằng hắng rồi giơ hai tay mang c̣ng ngoài song sắt lắc lắc ra
chiều thích thú. Tôi cũng mừng lây. Dù sao th́ Huynh Ánh cũng được chút ít thoải
mái trong cơn đau khổ...
Khoảng 15 phút sau, một tên công an khác đi qua đi lại trên sân ximăng. Tôi nhận
ra ngay đó là ông cai tù trưởng. Ông đi ṿng thứ hai th́ đứng ngay trước Huynh
Ánh, nh́n một lúc, rồi đi luôn. Một tên công an khác đến, khom lưng “nói chuyện”
ǵ đó với Huynh Ánh; tôi thấy cả hai đều đứng dậy; sau một lúc tên công an đi
mất hút. Lần này Huynh Ánh không thể giơ hai tay lắc lắc được nữa, v́ bị c̣ng
lên cao quá đầu, thiếu điều phải nhón chân lên nữa là khác. Bốn ánh mắt gặp nhau
đau khổ; miệng Huynh Ánh méo xẹo như muốn khóc. “Kinh nghiệm” cho tôi biết kiến
đang ḅ trong đôi chân của Huynh Ánh. Tôi không dám tằng hắng hay làm một cử
động nào. Chỉ biết lắc đầu thông cảm. Ngày hôm sau, không thấy Huynh Ánh bị
“treo” nữa. Mừng cho Huynh Ánh, một đêm như vậy cũng đủ chết người rồi.
Sáng sớm ngày thứ hai “treo cửa sổ” đang lim dim ngủ gật, tôi nghe tiếng người
đi từ ngoài sân ximăng vào. Một tên công an dẫn em Tiến đi ra mang theo túi hành
trang nhỏ. Em Tiến thấy tôi đứng treo cửa sổ, sửng sốt nh́n, đôi mắt lim dim như
muốn khóc. Tôi mỉm cười trấn an. Tên công an ngoái cổ nh́n em Tiến thúc dục: “Đi
mau lên! Muốn như tên phản động này há?” Tiến vội vă đi nhanh, nhưng vẫn ngoái
cổ nh́n tôi, vẫy tay như muốn nói: “Au Revoir!” [Em Tiến được thả tự do năm
1982. Trong thời gian chờ đợi dịp thuận tiện vượt biển, em đạp xích lô để kiếm
sống và trợ giúp gia đ́nh.
Khoảng cuối năm 1986, tôi đi Dallas, Texas gặp lại em Tiến. Em bày tỏ sự hối
tiếc và xin lỗi. Nhưng tôi nhắc lại cho em Tiến một đoạn trong vỡ kịch “Vụ Án Kỳ
Diệu” mà em Tiến thủ vai “đứa con ngô ngố”.
- Em c̣n nhớ câu nói trong vở kịch không? Tôi vừa cười vừa nói. ‘Khi nào tôi bị
treo lên th́ tôi mới hoàn lại trí khôn’.
- Dạ c̣n nhớ chứ! Em đă bị treo lên và được giải cứu. Bây giờ em hết ngô ngố rồi!]
***
Khoảng 5 phút sau một tên công an khác dẫn Huynh Đào đi ngang cửa sổ tôi đang bị “treo đứng”. Trông Huynh Đào tiều tụy hẳn, đôi mắt lim dim, đôi môi hé mở như luôn luôn mỉm cười. Em Tiến, rồi Huynh Đào đă đi ra. Tôi ngong ngóng chờ thêm c̣n ai trong Huynh Đệ ḿnh đi ra nữa không? Trời gần sáng, không c̣n ai đi ra nữa.
Vậy hai “cha con” bị đưa đi đâu?
[Huynh Đào bị đưa đến trại giam Chí Hoà; bị giải ra toà cùng một lượt với Huynh Hồng và nhóm liên can đến Phong Trào Liên Tôn chống cộng. Trong phiên toà, Huynh Đào nh́n nhận được hứa sẽ làm “trưởng pḥng giáo dục huyện Thủ Đức để canh tân đổi mới nền giáo dục tuổi trẻ“ nếu cuộc kháng chiến thành công. Huynh Đào bị kết án 12 năm tù và đưa đi cải tạo tại trung tâm A50, Khánh Hoà. Trong trại cải tạo cùng đội với Huynh Hồng, hai Anh Em nâng đỡ giúp nhau giữ vững tinh thần Huynh Đệ Lasan, nên chuỗi ngày tù tội xem ra cũng dễ chịu!
Sau 10 năm “học tập cải tạo tốt”, hai Huynh Đệ Đào & Hồng được thả tự do trước thời hạn. Huynh Đào về quê ở G̣ Dê, Nha Trang, nhập cộng đoàn Lasan Lê Lợi được 1 năm. Chuyển qua cộng đoàn Vĩnh Thọ - Xóm Bóng, Huynh Đào “quá” nhiệt thành gom thu các em học sinh trung tiểu học trong vùng vào nội trú - trên 50 em sinh sống (như tại Đệ Tử Viện trước 75) tại một căn nhà quá nhỏ hẹp với giường 2, 3 tầng... đến độ Huynh giám tỉnh và ban cố vấn phải yêu cầu ngưng hoạt động và thuyên chuyển Huynh Đào về Tân Cang lo cho một nhóm nhỏ “dự tu”.]