Xe tiến dần về Saigon. Khung cảnh “thủ đô Saigon - Ḥn Ngọc Viễn Đông” hiện
ra từ từ rơ nét. Đă 3 năm rồi - đúng ra đă hơn 5 năm rồi - mà không có ǵ thay
đổi, có chăng th́ màu đỏ trấn áp màu vàng/xanh của quê hương dân tộc. Xe chạy
vào đường Trần Hưng Đạo, quẹo vào cổng lớn mang bản hiệu nền đỏ chữ vàng:
KHÔNG CÓ G̀ QUÍ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO
SỞ CÔNG AN THÀNH PHỐ
“Cộng đoàn Lasan Mossard” nay thu gọn c̣n 8 Huynh Đệ: Huynh trưởng Ánh, các
Huynh Phúc, Điệp, An và các em đệ tử Thành, Minh, Thắng, Hoàng Bobo bị nhốt
chung trong một pḥng 4x4 mét kín mít, chỉ có cửa ra vào bằng sắt và trên cánh
cửa trổ một “judas” nho nhỏ. Nền tráng gạch men màu vàng lợt. Tối hôm đó, “cộng
đoàn” được bồi dưỡng bữa ăn thật thịnh soạn: mỗi người một chén cơm trắng, một
con cá kho bằng ngón tay út và tô canh... “đại dương” (vài cọng rau muống và bẹ
cải xanh). Tuy không được chính thức cho biết là “bồi dưỡng trước khi được thả
tự do”, nhưng chúng tôi cảm nhận hầu như chắc chắn rằng chúng tôi sẽ được thả tự
do một ngày gần đây. Quả thật, những bữa ăn trong suốt thời gian ở Sở Công An
Thành Phố đều thuộc loại “tù... cao cấp”. Ư tưởng sắp được tự do - nhất là hy
vọng sắp được trở về ngôi nhà thân yêu Đệ Tử Viện - làm ai nấy phấn khởi vui
mừng.
Câu chuyện đầu môi chóp lưỡi quay quanh vấn đề “Các Anh Em của chúng ta như
Huynh Đào, Huynh Hồng, Huynh Hà, Huynh Thắng, em Hoàng Dương, em Tiến, em Vinh
có được bồi dưỡng như chúng ta bây giờ không? Nếu không th́ bao giờ Anh Em mới
được bồi dưỡng?... Không biết ngôi nhà Đệ Tử Viện bây giờ ai ở? Có thay đổi ǵ
không? vân vân và vân vân...”
Sáng hôm sau, nghe tiếng hát mạnh dạng, cũng vui mừng phấn khởi không ít vọng từ
pḥng đối diện, chỉ cách một hàng ba vừa cở 2 người đi song song. Các bài hát
không có chút nào mang màu sắt... hồng hồng đo đỏ, trái lại tuy là những bài hát
mới nghe lần đầu nhưng ít nhiều phảng phất âm điệu hào hùng của màu vàng tươi.
Qua cánh cửa judas, em Thành hỏi lớn: “Ai bên pḥng kia vậy? Bên này là La San
đây!” Tiếng hồi đáp phía bên kia pḥng: “Tuyên Úy Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đây!”
Qua trung gian của nữ tù (?) nhân viên ẩm thực, chúng tôi được biết ở pḥng bên
kia là 7 linh mục tuyên úy Quân Đội VNCH mới được đưa từ Hà Nội vào hơn 1 tuần
nay - trong số này tôi nghe biết tên linh mục Cao, linh mục Văn- linh mục Sơn,
và 1 linh mục mới được đưa từ trại cảo tạo Hàm Tân về hôm qua. Suy đoán của tôi
là 16 người (8 linh mục và 8 La San) được bồi dưỡng trước khi được thả tự do.
Nhưng tại sao chỉ có 16 người “thuộc diện linh mục/tu sĩ công giáo”?
Khoảng 10 ngày sau, tôi nghe tiếng thẩm cung:
- Tên ǵ?
- Linh mục Đoan
- Địa chỉ?
- Trung Tâm Đắc Lộ
-...
- Bằng cấp ǵ?
- Phó tiến sĩ
- Cái ǵ mà phó tiến sĩ?
- Th́ cứ ghi phó tiến sĩ
- ...
Huynh trưởng Ánh nói: “Giờ Ḍng Tên đă đến! Cha Đoan là giám đốc Trung Tâm Đắc
Lộ đó. Chắc là ‘giờ Lasan’ đă qua, bây giờ mới đến ‘giờ Đắc Lộ’! Không biết các
ḍng khác khi nào mới ‘tới giờ’?” Các linh mục pḥng đối diện đưa tin giống như
Huynh trưởng Ánh vừa nói.
Ngày 10 tháng 12 năm 1980, anh em trong “cộng đoàn La San Mossard” tuần tự được
kêu lên làm việc. Tôi gặp một người công an trên dưới 40 tuổi, dáng người thư
sinh trắng trẻo, tự xưng là Tám Tâm đặc nhiệm về tôn giáo vụ. Anh ăn nói nhă
nhặn niềm nở. Có lẽ anh thừa biết là lên lớp giảng dạy về “đạo đức cách mạng”
cũng... vô ích, nên chỉ hỏi vài câu vớ vẩn về quê nhà của tôi, về công ăn việc
làm của tôi trước khi bị bắt. Xem chừng nhập đề như vậy là đủ, anh vào vấn đề
chính: “Anh có biết tại sao anh bị bắt không?” Thay v́ trả lời, tôi chỉ lắc đầu.
Anh công an nói: “Tôi biết các ‘Frère’ Lasan nhiều lắm, tôi biết các anh không
làm chính trị...” - “Vậy tại sao lại bắt tôi?” Tôi nói lớn, nh́n thẳng vào mặt
anh ta. Ngạc nhiên v́ thái độ cứng rắn của tôi, anh ta xịu mặt như đè nén cơn
giận bất ngờ. Tôi nói tiếp: “Bắt anh em tôi, không ra ṭa, không bị kết án, rồi
lại bắt đi cải tạo 3 năm!” Như thể không dằn nổi cơn giận, anh ta nói lớn: “Đă 3
năm rồi mà... vẫn vậy!” Tôi kể lại cho Huynh trưởng Ánh, Huynh trưởng cười nói:
“’Moi’ cũng nghe nói y như vậy về Lasan! Nó c̣n cho ‘moi’ biết là đức giám mục
địa phận Đà Nẵng cũng phản động lắm và đă bị bắt; ‘moi’ nghi không biết nó nói
như vậy là để hù ḿnh hay là thật.”
Sáng ngày 15/12/1980, các linh mục được kêu tên từng người, mang theo hành
trang, “chuyển trại”. Có một vị ra khỏi pḥng, đi xéo ngang trước pḥng chúng
tôi nói lớn giọng vui vẻ: “Các Frère yên tâm đi, ḿnh được trả tự do đó! Có đức
tổng đến đón!” Huynh Đệ chúng tôi cũng đă xếp hành trang chuẩn bị đến phiên ḿnh...
được tự do. Đợi. Đợi nữa. Đợi măi.
Khi cô nhà bếp đem cơm trưa đến mới biết là đức tổng Nguyễn Văn B́nh đă đem 8
linh mục “đến nơi tự do” rồi! Khoảng 2 giờ chiều, nghe tiếng công an nói qua cửa
sổ judas: “Tất cả dọn hành trang, chuẩn bị 15 phút nữa chuyển trại!”Anh Em nh́n
nhau như mừng như ngờ ngợ. Chuyển trại thạât không đây? Hay như sáng nay, các
linh mục cũng đă chuyển trại... tự do? Chưa được 3 phút, chúng tôi đă sẵn sàng...
“chuyển trại.” Tiếng mở cửa sắt, chúng tôi đă đứng ngay cửa, tay ôm hành trang.
Công an bảo: “Đi qua pḥng này!” Th́ ra cánh cửa pḥng đối diện đă mở sẵn -
pḥng các linh mục đă tá túc hơn 1 tháng và đă ra đi, nhường lại cho chúng tôi.
Trong pḥng có sẵn 4, 5 người không biết đến từ lúc nào. Những người này trạc độ
30-50 tuổi, dáng như là “con mới” chứ không phải từng trải chốn lao tù ở đâu đem
về để được “bồi dưỡng” như 8 linh mục và 8 La San. Nhận xét thoáng qua này càng
làm tôi tin chắc “ḿnh bị chuyển trại thật rồi! Lại tiếp tục lao động là vinh
quang tại đâu và cho đến khi nào đây?”
Huynh Đệ trong “cộng đoàn Lasan Mossard” ai nấy chán nản, thất vọng v́ đă “bán
da gấu trước khi bắt được gấu”. Những người bạn nh́n chúng tôi, lắc đầu xầm x́
to nhỏ với nhau; một anh thanh niên - có lẽ trẻ nhất trong nhóm 4, 5 người đó -
nh́n chúng tôi với ánh mắt thật kỳ lạ, vừa ngạc nhiên vừa đăm chiêu ra điều suy
nghĩ chuyện ǵ. Tôi bắt gặp ánh mắt đó, mỉm cười lắc đầu chán nản. Suốt 2 ngày
không ai nói với ai; nhóm đến trước y tuồng nhận ra chúng tôi, nhưng không dám
bén mảng tới nói chuyện. Bầu khí thật ngột ngạt khó chịu, bao trùm cả một sự
nghi ngờ lẫn nhau - có lẽ sự nghi ngờ xuất phát từ phía chúng tôi hơn là từ phía
nhóm “con mới”. Sáng ngày thứ ba, tôi bắt gặp ánh mắt chàng thanh niên như muốn
“làm quen nói chuyện”, tôi mỉm cười gật đầu chào. Anh đến ngồi cạnh tôi, khỏi
cần tự giới thiệu, bắt đầu kể chuyện:
"Frère chắc không biết em, nhưng em biết Frère. Frère c̣n nhớ hai anh em đệ
tử của Frère ở Mossard tên là Triết và Thụy không? Hai em nói về Frère nhiều lắm,
nhất là khi các Frère ở Mossard bị bắt. Em làm việc chung với ba của hai em nên
hai em rất tin tưởng và mến trọng em. Ba của hai em Triết và Thụy cũng bị bắt
một lần với em cùng với 4 anh em bạn đây và cha Đoan, giám đốc Trung Tâm Đắc Lộ.
Sáng ngày 8 tháng 12, đại diện hội đồng giáo xứ, đại diện ban mục vụ và phụng vụ,
đại diện ban sinh hoạt thanh niên và hội đoàn có buổi họp dưới sự chủ toạ của
cha Đoan để tổng kết chương tŕnh mừng Noel tại Trung Tâm Đắc Lộ. Gần 10 giờ
sáng, em đi vào cổng và sắp bước lên bậc cấp vào pḥng họp, em nghe tiếng xe
chạy vào cổng. Em quay lại nh́n th́ thấy dẫn đầu là xe Jeep, tiếp theo là xe La
Dalat, xe Landrover 4x4 và nhiều chiếc molotova chở nhiều công an trang bị súng
ống đủ loại. Em nh́n vào trong chiếc xe Jeep, thấy một gương mắt quen quen ngồi
hàng ghế sau; em đang suy nghĩ nhận diện “người này là ai?” th́ tên công an ngồi
ghế trên quay xuống lấy bàn tay phải che và đẩy mặt người này vào phía trong. Xe
Jeep ngừng lại, tên công nhảy xuống và bắt em, c̣ng tay rồi bảo em đứng yên một
chỗ. Công an nhảy xuống xe molotova, chạy bao quanh Trung Tâm Đắc Lộ. Một số
công an xuống xe La Dalat và Landrover 4x4, đi thẳng vào nhà. Người em thấy mặt
quen quen vẫn ngồi trong xe Jeep, hai bàn tay dấu mặt.
Khoảng 15 phút sau, công an dẫn 5 người bị c̣ng tay đi ra đứng chung với em, sau
đó tụi nó dẫn cha Đoan đi ra nhưng cha Đoan không bị c̣ng tay. Tụi nó đẩy cha
Đoan lên xe La Dalat, xe chạy đi đâu em không biết."
Tôi nói: “Cha Đoan bị dẫn về đây; tuần trước ai cũng nghe tiếng cha trả lời thẩm
cung của công an và chúng tôi biết là Cha Đoan đă bị bắt.” Anh gật đầu thở
dài, rồi kể tiếp: "Tụi nó đẩy ba của hai em Triết và Thụy lên xe 4x4 rời đưa đi
đâu tụi em cũng không biết. Sau cùng tụi nó đẩy 5 người tụi em lên chiếc xe Van
đến Trung Tâm lúc nào không ai để ư, xe chạy đến trại giam Phan Đăng Lưu; tụi em
ở đó 10 ngày, hôm kia tụi nó đem về em về đây, đúng lúc đức tổng B́nh đến đón 8
linh mục. Tụi em được biết 2, 3 tuần trước rằng đức tổng B́nh sẽ đến đón các
linh mục và tu sĩ bị giam giữ từ năm 1975 được trả tự do. Nghe đâu đó là thành
quả của một cuộc trao đổi: Toà Thánh Vatican cho nhà nước một tàu lương thực và
thuốc men, đổi lại sự trả tự do cho tất cả các linh mục và tu sĩ. Không biết tại
sao hôm kia chỉ có 8 linh mục được trả tự do? Tụi em tưởng các Frère cũng được
trả tự do cùng một lượt, không ngờ lại được gặp các Frère trong pḥng này! Em
nghĩ rằng sớm muộn ǵ tụi nó cũng thả các Frère. Frère yên tâm đi!
Trong mấy ngày nay, em suy tưởng hoài đến “gương mặt quen quen” em thấy ngồi
trên xe Jeep ngày đầu tiên Trung Tâm Đắc Lộ “bị thăm viếng”; em đă “nhận diện”
được tên chỉ điểm này! Thật tạ ơn Chúa Quan Pḥng sắp đặt cho em được nói chuyện
với Frère tại pḥng này. Em phải nói ngay sợ không c̣n cơ hội v́ em nghĩ thật sự
cần thiết để các ḍng tu, cách riêng ḍng các Frère, lưu tâm để ư về tên này, và
một vài người theo em nghĩ có “nhiệm vụ theo dơi” sinh hoạt của các ḍng tu. Xin
Frère t́m cách thích hợp báo tin cho các ḍng tu. Tên “chỉ điểm” dáng người thon
thon, tương đối cao, gương mặt tṛn hơi có vẻ khắc khổ và trạc độ trên dưới 50
tuổi. Ông ta thường đi xe đạp, treo một giỏ cói trước guidon, và đặc điểm là mỗi
ngày thứ bảy từ 3 giờ đến 5 giờ chiều, ông ngồi uớng nước nơi quầy ép nước mía,
đối diện với cổng chính vào nhà thờ Kỳ Đồng ḍng Chúa CứuThế. Em không biết là
hắn đă chỉ điểm và làm hại những ḍng tu nào rồi, nhưng em khẳng định là hắn đă
chỉ điểm ḍng Tên tại Trung Tâm Đắc Lộ.
Trước khi em nói về một người thứ hai, em xin Frère đừng ngạc nhiên, và cũng
đừng hỏi em ǵ hết về người này. Em không muốn phản bội người bạn của em, nhưng
v́ là vấn đề quan trọng và có thể nguy hại cho ḍng của các Frères, nên em đành
phải nói cho Frère biết. Người bạn đó là một cựu Frère - xin phép Frère cho em
dấu tên, mà em tin chắc Frère nhận ra người này dễ dàng. Người bạn đó và một em
đệ tử của Frère cùng với em vượt biển. Trên đường đến “cá lớn”, chẳng may bị
phát hiện bởi công an khu vực và bộ đội địa phương tuần tiễu. Em may mắn chạy
thoát được. Người bạn và em đệ tử cùng nhiều người khác bị bắt. Khoảng gần một
tháng sau, em gặp lại người bạn - hết sức vui mừng. Một hôm, người bạn tâm sự và
hỏi ư kiến em - v́ cựu Frère đó và em là bạn rất thân và tin tưởng nhau. Người
bạn “bị ép buộc chấp nhận một cuộc trao đổi với sở công an thành phố: Người bạn
phải theo dơi và báo cáo về những bài giảng của các linh mục trong nhà thờ sẽ
được chỉ định, đặc biệt những ngày lễ lớn như Noel, Tết Nguyên Đán... để đổi lại
được trả tự do sớm - nếu không th́ phải đi học tập cải tạo! Thêm vào đó - và đây
là điểm chính mà em mong muốn cho Frère biết - Người bạn phải theo dơi hành tung
của một người gốc Hoa, thường hay lui tới nhà giám tỉnh của ḍng Lasan tại 53B
Nguyễn Du [nghe đâu về việc chuyển ngân, đổi tiền], báo cáo đầy đủ những sinh
hoạt và giao tế tiếp xúc của Sư Huynh giám tỉnh.
Trong t́nh thế tế nhị như vậy, em đă khuyên người bạn:
1. về việc nghe và báo cáo các bài giảng trong nhà thờ, th́ cứ nói cho đúng sự
thật, v́ có rất nhiều người đi lễ, nghe giảng, và trong số đông đó, ḿnh đâu
biết “ai là ai?”
2. về việc theo dơi sinh hoạt của Frère giám tỉnh, đặc biệt về hành tung giao
dịch của người gốc Hoa th́... tùy cơ ứng biến. Chắc chắn tụi nó cũng cho nhiều
người khác theo sát chứ không phải chỉ một ḿnh ḿnh thôi đâu! Vấn đề thật nhạy
cảm và khó khăn cho người bạn, nhưng không báo cáo không được! V́ thế em nghĩ là
cứ báo cáo, ví dụ hôm đó, hôm kia, hôm nọ... “thấy Sư Huynh giám tỉnh đi Honda
ra khỏi nhà - không biết đi đâu”, v.v...
Thú thật với Frère, được dịp nói hết mọi chuyện cần phải nói với Frère em cảm
thấy nhẹ nhơm trong ḷng. Xin Frère cẩn thận, âm thầm báo động - hoặc nhờ ai
thân tín nhất và có uy tín nhất báo động - cho các ḍng tu lưu ư khi tiếp xúc
với những người khác, ngay cả với những anh chị em từng chung một lư tưởng. Thật
đau đớn phải nói như vậy, nhưng em vẫn hy vọng các Ngài biết “ai là ai”."
***
Sáng ngày 22 tháng 12 năm 1980, công an kêu tên “Nguyễn Hoàng Phúc, Nguyễn
Minh Thành, Nguyễn Ngọc Minh, Lâm Thanh Hoàng, đem theo hết hành trang đi...
chuyển trại!” Ai nấy giật nẩy người; “chuyển trại? như vậy là’ cộng đoàn Lasan
Mossard’ lại bị xé mỏng rồi! Mà đi... chuyển trại nào?” Tôi nh́n anh bạn, đớ
người. Anh bạn nh́n tôi, nhíu mày kinh ngạc.
Bốn Huynh Đệ c̣n lại chỉ biết nh́n nhau nhún vai, cười... huề! Tôi nghĩ “đi đâu
cũng được, miễn là có anh em cùng đi với nhau; nhóm 4 Huynh Đệ đi trước dù sao
cũng... có nhau là tốt rồi!” Em Minh bỗng xuất hiện đứng trưiớc cửa pḥng chưa
đóng khoá lại; em viện cớ là quên vật dụng riêng trong pḥng, chạy vào nói vừa
đủ nghe: ”Không phải chuyển trại! Ḿnh được trả tự do!” rồi đi nhanh ra ngoài.
Anh Em nh́n nhau thở phào nhẹ nhơm. Anh bạn nh́n tôi cười nói: “Họ hù đó Frère!
Yên tâm, và nhớ nghe!” Khoảng 15 phút sau, tên công an đến kêu tên “Trần Văn Ánh,
Nguyễn Văn An, Phạm Xuân Điệp, Hồ Quốc Thắng, dọn dẹp hành trang... chuyển trại!”
Khác hẳn lần trước, ai nấy cười nói vui vẻ: “chuyển trại... anh em ơi!” Mọi sự
đă sẵn sàng, xách bao hành lư đi ngay. Tôi quay lại nh́n anh bạn mỉm cười, gật
gật đầu; anh bạn cũng mỉm cười ra điều hiểu tôi muốn nói ǵ.
Đến văn pḥng trước cổng chính, mỗi người nhận “Lệnh Tha” và một phong b́ nhỏ,
chưa biết đựng ǵ trong đó. Tôi liếc đọc nhanh Lệnh Tha, thấy ngày bị bắt ghi
sai. Tôi nói với công an: “Tôi bị bắt ngày 3 tháng 1 năm 1978, trong giấy Lệnh
Tha ghi sai là ngày 15 tháng 3 năm 1978.” Tên công an lạnh lùng trả lời: “Muốn
về th́ cầm lấy giấy mà về!” Tôi chợt nhớ “Kư tên hay không kư tên cũng vậy!” nên
vội vàng cầm giấy đi ra cổng. Trước khi ra khỏi cổng, một tên công an khác chận
lại, xét hành trang thêm lần nữa. Hắn nh́n tôi nghiêm nghị nói: “Anh thay bộ đồ
khác rồi đi ra cổng!” Tôi đáp ngay: “Tôi không c̣n bộ đồ nào hết! Chẳng lẽ ở
trần mà đi ngoài đường phố!” Hắn có vẻ giận dữ, nghếch đầu ra phía cổng làm hiệu
“đi đi!” chứ chẳng thèm nói tiếng nào. Nguyên tôi mặc bộ đồ tù màu xanh xám, có
in dấu CẢI TẠO K3; 1 dấu trên ngực áo, 1 dấu sau lưng áo, 2 dấu dọc theo hai ống
chân quần . [Trong thời gian vượt biển, tôi gởi bộ quần áo tù nhờ Chị Hoài
Châu bảo quản với ư định khi đến bến bờ tự do th́ sẽ xin Chị gởi qua cho tôi làm
kỷ niệm. Thời gian “vô gia cư vô nghề nghiệp” lênh đênh nay đây mai đó trên
chiếc ghe kéo dài quá lâu (gần 3 năm), bộ áo quần đó bị thất lạc.]
Chúng tôi hí hửng ra khỏi cổng. Vài chiếc xích lô chạy đến mời mọc, nhưng cả 4
Anh Em đồng ư đi bộ về Taberd cho... khoái chí. Từ sở công an thành phố về
Taberd không xa lắm, nhưng đi bộ với đôi guốc gỗ “made in K3” thật không khá nỗi.
Tuy nhiên ai nấy thích thú vừa đi vừa nhảy, nói cười huyên thuyên, không biết
đau chân mỏi mệt là ǵ. Vừa đi mỗi người vừa bốc phong b́ ra xem; ai nấy ồ lên
một tiếng “tiền!” Tôi đếm được 100 đồng; Huynh Điệp được 75 đồng; Huynh trưởng
Ánh được 50 đồng; em Thắng Hồ chỉ được 25 đồng. Đọc lại giấy Lệnh Tha, mỗi người
mới biết là “phải trở về nguyên quán”. Th́ ra đó là tiền đi xe “trở về nguyên
quán”. Như vậy Tu Viện Lasan Mossard ở Thủ Đức... tiêu tùng rồi! Ai nấy xịu mặt.
Đến công trường Quách Thị Trang, chúng tôi ngồi nghỉ tại ghế đá công viên. Nghe
tiếng chuông reng reng... cà-lem cây, tôi khoái chí cười mời các Huynh Đệ: “Lâu
lắm rồi ḿnh chưa ăn cà-lem; hôm nay tôi bao, tôi có tiền nhiều nhất mà!” Thế là
Huynh Đệ mỗi người 2 cây cà-lem, ngồi thưởng thức hương vị ngọt mát, hít thở
không khí ấm dịu ban trưa ở trung tâm “thủ đô” Saigon vào mùa Giáng Sinh, mặc dù
chung quanh không thấy một dấu hiệu nào phản phất ư nghĩa cao đẹp của “Mùa Cực
Thánh, Mùa Thanh B́nh, Mùa B́nh An Dưới Thế Cho Người Chúa Thương”.
Chúng tôi đến 53B Nguyễn Du, Huynh giám tỉnh Lucien h́nh như đă được tin chúng
tôi sẽ đến, nên Huynh giám tỉnh tươi cười chào đón: “’Moi’ đợi mấy ‘vous’ năy
giờ!” Tôi bộc phát hỏi: “Sao Bề Trên biết?” Huynh giám tỉnh cười hóm hỉnh trả
lời: “’Antenne’ giăng đầy xung quanh đây mà! Nói thật ra em Ngọc Minh có đến báo
tin rằng Frère Phúc và 3 em đệ tử được thả ra trước, thế nào cũng đến phiên mấy
‘vous’, phải không?” Phải nói đây là lần đầu tiên tôi thấy Huynh giám tỉnh tươi
cười vuivẻ, cởi mở rất tự nhiên thoải mái, gương mặt rạng rỡ khác hẳn những h́nh
ảnh tôi có về Huynh giám tỉnh, kể cả từ ngày đầu tiên tôi gặp ở Nhà Tập tại Đồi
Lasan Nha Trang năm 1965. Tôi nghĩ thầm: “Cuộc đổi đời cũng có mặt tích cực của
nó!”
“Mấy ‘vous’ chắc chưa ăn trưa? Thôi ḿnh đi ăn phở cái đă!” Tất cả đồng thanh vỗ
tay cười trả lời: “Hoan hô! Mấy năm rồi đâu có tô phở nào đâu!” Huynh giám tỉnh
dẫn 4 Anh Em chúng tôi đến tiệm phở trên đường Nguyễn Du. Trên đường đi, cả 4
người như nhảy như múa vui mừng cười nói huyên thuyên. Vừa băng qua ngă tư Hai
Bà Trưng - Nguyễn Du, ba thanh niên mặc thường phục và một tên công an mặc sắc
phục chận đường, tên công an hỏi: “Các anh từ đâu đến?” Tất cả đứng lại, thoáng
ngạc nhiên; tôi tự hỏi: “Ḿnh cười nói vui vẻ, đi trên lề đường chứ có ǵ gọi là
phá rối trật tự lưu thông đâu mà chận lại?” Huynh giám tỉnh vui vẻ trả lời: “À,
đây là 4 anh em tôi vừa được trả tự do”. Tên công an vẫn với bộ mặt dễ ghét hỏi:
“Có giấy tờ ǵ không?” Chúng tôi móc túi lấy giấy “Lệnh Tha” đưa ra, hắn đọc
thoáng qua, tỏ vẻ điềm đạm hơn, rồi nói: “Được! các anh đi đi!” Tôi chợt nhớ đến
câu chuyện ví von trường đời: “Chúng ta đi dạo vui chơi trên đường đời. Một con
chó bỗng nhảy ra sủa. Hai ư tưởng có thể chớp nhoáng trong đầu chúng ta: 1. Con
chó sủa đúng v́ chúng ta đă xâm phạm vào lănh thổ của nó - dù chỉ là vô t́nh;
vậy chúng ta hăy sữa sai, tránh xa lănh thổ của nó. 2. Chúng ta đi trên đường
không thuộc quyền ai, con chó sủa ầm lên. Có thể là con chó b́nh thường nhưng
sủa bậy; cũng có thể là con chó... điên, chúng ta nên tránh tốt hơn. Tuy nhiên,
v́ tiếng chó sủa - dù điên hay sủa bậy - mà chúng ta bỏ dở sự vui sống trên
đường đời của chúng ta sao?”
Trong khi chúng tôi thưởng thức tô phở thơm ngon, Huynh giám tỉnh kể chuyện:
“Thật ra ‘moi’ được đức tổng B́nh báo cho biết là ngày 15 tháng 12, đức tổng sẽ
đến sở công an thành phố đón 8 linh mục và 8 tu sĩ La San. Trưa ngày 15, ‘moi’
thông báo cho Anh Em trong tỉnh ḍng tin vui mừng đó, và mời Anh Em ai có thể
đến nhà giám tỉnh để chào đón mấy ‘vous’ th́ đến. Trưa ngày 15, tụi ‘moi’ sẵn
sàng bánh nước và cơm trưa ‘đặc biệt’ chào đón mấy ‘vous’. Trên 20 Anh Em đợi
dài cả cổ mà không thấy mấy ‘vous’. Chiều hôm đó, ‘moi’ tới gặp đức tổng và đức
tổng cho biết là họ chỉ cho 8 linh mục ra về mà thôi, c̣n “8 ông La San đă học
tập 3 năm mà... cũng vậy! Giam họ thêm vài ngày cho biết mùi... cải tạo!” Tụi
‘moi’ cười với nhau, biết mấy ‘vous’ quá mà! Sáng nay em Ngọc Minh được thả ra
trước vội đến báo tin, ‘moi’ mới biết là mấy ‘vous’ sắp được về.”
Trở lại 53B Nguyễn Du, việc đầu tiên và quan trọng nhất - mà cũng khó xử nhất -
là xác định “cộng đoàn Lasan Mossard c̣n tồn tại hay không? Nếu c̣n th́ gồm có
những thành viên nào?” Trong lịch sử toàn ḍng nói chung và tỉnh ḍng Saigon nói
riêng, chưa hề có biến cố nào như vậy xảy ra. Huynh giám tỉnh đă phải gặp nhiều,
rất nhiều rắc rối - nếu không muốn nói bị hạch tội - sau khi cộng đoàn La San
Mossard “bị thăm viếng” ngày 3/1/1978.
Trên một b́nh diện nào đó, chính quyền cộng sản xử sự việc “quản lư nhân dân”
theo truyền thống dân tộc “con dại cái mang”. Dù sao th́ Huynh giám tỉnh cũng đă
nổ lực làm tṛn chức năng của người mẹ, của người cha đối với cộng đoàn “gặp nạn”
trong hoàn cảnh chính trị xă hội quá đa dạng và phức tạp lúc bấy giờ. Thành quả
tuy không toàn hảo nhưng cũng đáng vui mừng, đó là “cộng đoàn La San Mossard” đă
được trả tự do. Tuy nhiên, vấn đề là nếu mỗi thành viên trong cộng đoàn đành
phải chịu bị ép buộc tuân theo chỉ thị của chính quyền - về nguyên quán - th́
khả năng tồn tại theo pháp lư của cộng đoàn đương nhiên không c̣n nữa. Huynh
giám tỉnh nghe và cảm thông được nỗi niềm của Huynh Đệ trong cộng đoàn La San
Mossard - tuy chỉ c̣n 4 thành viên (và các thành viên khác có thể trở lại) - đă
đồng t́nh “rằng th́ là hứ hứ... thôi! tạm thời mấy ‘vous’ về Mai Thôn”.